KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, THỜI ĐẠI CỦA CHIẾN THẮNG 30 THÁNG 4

Năm nay, trong những ngày hướng đến kỷ niệm Chiến thắng lịch sử vĩ đại 30/4/1975, nhân dân ta đón mừng sự kiện này với nhiều niềm vui mới. Theo báo cáo của Chính phủ, kinh tế Việt Nam năm 2018 khởi sắc trên cả ba khu vực sản xuất, cung - cầu của nền kinh tế cùng song hành phát triển.

NHẬN DIỆN VÀ NGĂN NGỪA THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG LÒNG YÊU NƯỚC ĐỂ KÍCH ĐỘNG NGƯỜI DÂN XUỐNG ĐƯỜNG BIỂU TÌNH, GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Người yêu nước chân chính là người biết sử dụng pháp luật, đạo đức, truyền thống tốt đẹp để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, đồng thời phải biết tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Nhận diện được phương thức, thủ đoạn lợi dụng lòng yêu nước để kích động nhân dân làm việc xấu chính là nhằm đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp, đồng thời tránh được sự lợi dụng đó để gây ra rối loạn xã hội, phức tạp tình hình.

Thông cáo báo chí kỳ họp 32 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Từ ngày 03 đến 06/12/2018 tại Hà Nội, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã họp kỳ 32. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương chủ trì kỳ họp.

UBKTTW kết luận vụ AVG: Sai phạm của ông Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn là rất nghiêm trọng

UBKTTW vừa họp kỳ 26 kết luận vụ AVG có những vi phạm của Ban cán sự đảng Bộ TT-TT, ông Nguyễn Bắc Son, ông Trương Minh Tuấn, ông Phạm Đình Trọng, của Ban Thường vụ Đảng ủy Mobifone và các ông Lê Nam Trà, Cao Duy Hải là rất nghiêm trọng.

Bốn kỳ vọng thay đổi lớn về công tác cán bộ sau 4 ngày Hội nghị T.Ư 7

Sau 4 ngày làm việc, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng được dư luận đặc biệt quan tâm, trong đó có công tác cán bộ, bởi đây là vấn đề “nóng” trong tình hình hiện nay.

Thứ Hai, 13 tháng 11, 2017

Toàn cảnh cuộc chiến chống chế độ diệt chủng Pol Pot

Từ năm 1975 đến 1979, đất nước Campuchia ngập chìm trong nỗi đau tột cùng bởi họa diệt chủng mà chính quyền Khmer Đỏ gây nên. Bè lũ phản động Pol Pot đã xua quân lấn chiếm biên giới và tàn sát nhân dân Việt Nam ở phía Tây Nam. Quân đội nhân dân Việt Nam đã cùng lực lượng yêu nước Campuchia chiến đấu, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng và xây dựng nước Cộng hòa nhân dân Campuchia ngày càng phát triển.


Bối cảnh chiến sự trước năm 1979
Sau Chiến tranh Việt Nam (1975), Việt Nam và Campuchia xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Tranh chấp và xung đột biên giới xảy ra liên tục trong các năm 1977 và 1978. Ngày 4/5/1975, một toán quân Khmer Đỏ đột kích đảo Phú Quốc, ngày 10/5, quân Khmer Đỏ đánh chiếm và hành quyết hơn 500 dân thường ở đảo Thổ Chu. Quân đội nhân dân Việt Nam đã phản công, giành lại các đảo này. Khi đó, Trung Quốc đang có lực lượng cố vấn ở Campuchia và Trung Quốc tăng cường viện trợ quân sự cho lực lượng vũ trang Khmer Đỏ.
Tiếp đó, Khmer Đỏ tiến hành hai cuộc xâm nhập qui mô lớn vào Việt Nam. Cuộc tấn công lớn đầu tiên diễn ra vào tháng 4 năm 1977, quân chính qui Khmer Đỏ tiến sâu 10 km vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm một số vùng ở tỉnh An Giang và tàn sát rất nhiều dân thường. Cuộc tấn công thứ hai diễn ra vào ngày 25/9 cùng năm, lần này 4 sư đoàn quân Khmer Đỏ đánh chiếm nhiều điểm ở các huyện Tân Biên, Bến Cầu, Châu Thành (tỉnh Tây Ninh), đốt phá 471 ngôi nhà, làm gần 800 người dân bị giết, bị thương hoặc mất tích.
Ngày 31/12/1977, Quân đội Nhân dân Việt Nam huy động 6 sư đoàn đánh vào sâu trong đất Campuchia đến tận bến phà Neak Luong rồi rút lui từ ngày 5/1/1978, mang theo một số nhân vật quan trọng bên phía Campuchia, trong đó có cả Thủ tướng tương lai Hun Sen. Cuộc tấn công này được xem là lời “cảnh cáo” cho Khmer Đỏ. Phía Việt Nam đề nghị một giải pháp ngoại giao nhằm thiết lập một vùng phi quân sự dọc biên giới, nhưng Pol Pot từ chối và chiến tranh ở biên giới Tây Nam tiếp diễn.
Pol Pot đã điều 13 trong số 17 sư đoàn chủ lực và một số trung đoàn địa phương liên tục tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, có nơi vào sâu tới 15–20 km. Trong các đợt tấn công đó, Khmer Đỏ đã thực hiện thảm sát đối với người Việt Nam, điển hình là vụ thảm sát Ba Chúc vào tháng 4 năm 1978 với 3157 dân thường bị giết hại. Từ năm 1975 cho tới năm 1978, có tới 30 ngàn người Việt Nam bị Khmer Đỏ sát hại trong các cuộc tấn công dọc biên giới.
Việt Nam cố gắng giải quyết cuộc xung đột một cách hòa bình thông qua đàm phán ngoại giao nhưng phía Khmer Đỏ từ chối đàm phán, Trung Quốc không chịu làm trung gian hòa giải, còn Liên hợp quốc không có biện pháp gì phản hồi lại các phản đối của Việt Nam về các hành động gây hấn của Khmer Đỏ. Việt Nam phải chuyển sang sử dụng vũ lực để giải quyết cuộc xung đột.
Ngày 13/12/1978, được sự trang bị và hậu thuẫn của Trung Quốc, Khmer Đỏ đã huy động 10 trong 19 sư đoàn (khoảng 50.000 đến 60.000 quân) tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Ba sư đoàn đánh vào Bến Sỏi với mục tiêu chiếm thị xã Tây Ninh, 2 sư đoàn đánh vào Hồng Ngự (Đồng Tháp), 2 sư đoàn đánh khu vực Bảy Núi (An Giang), 1 sư đoàn đánh Trà Phô, Trà Tiến (Kiên Giang). Tại những vùng chiếm đóng, Khmer Đỏ đã thực hiện sách lược diệt chủng đối với người Việt, như đã làm với người Khmer.
Quân đội Việt Nam đã chống trả quyết liệt và ngăn chặn địch, đồng thời tiêu hao sinh lực của quân Khmer đỏ. Các hướng tiến quân của Khmer Đỏ không thể phát triển được. Ngoại trừ Hà Tiên bị chiếm giữ trong thời gian ngắn, không một thị xã nào của Việt Nam bị chiếm.
Quân đội Việt Nam đã tiêu diệt 38.563 quân Khmer đỏ, bắt sống 5.800 tên, đồng thời dùng không quân phối hợp với bộ binh tiến hành các cuộc không kích và giao tranh trên bộ, đánh vào các đơn vị quân Khmer Đỏ dọc biên giới, nhằm làm suy yếu quân Khmer Đỏ trước khi quân Việt Nam bắt đầu chiến dịch đã tiêu diệt khoảng 17 ngàn quân Khmer Đỏ.
Chiến dịch biên giới Tây Nam và Campuchia
Chỉ huy trực tiếp chiến dịch là Thượng tướng Lê Trọng Tấn, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Đầu tháng 12/1978, quân đội Việt Nam được hỗ trợ bởi một số tiểu đoàn Khmer thân Việt Nam. Đây là những đơn vị quân đội Campuchia yêu nước, chống lại chính quyền Khmer đỏ, đã kiểm soát một vùng đệm dọc biên giới trong lãnh thổ Campuchia, từ Mimot đến Snuol ở các tỉnh Kampong Cham và Kratié. Ở phía Bắc, quân Việt Nam cũng kiểm soát một vùng rộng thuộc lãnh thổ Campuchia dọc theo đường 19.
Ngày 23/12/1978, sau khi được tăng viện, với 80.000 quân, quân đội Việt Nam đã tiến hành phản công trên toàn bộ mặt trận, đẩy lùi quân Khmer Đỏ. Sư đoàn 2 cùng trung đoàn chủ lực tỉnh Tây Ninh mở cuộc tấn công nhằm đánh bật các Trung đoàn 23 thuộc Sư đoàn 304 và Trung đoàn 13 thuộc Sư đoàn 221 của Campuchia ra khỏi các vị trí dọc theo tỉnh lộ 13 sát biên giới.
Tuy nhiên, cuộc chiến chưa chấm dứt, quân đội Việt Nam quyết định mở cuộc tấn công sâu vào đất Campuchia…
Đánh chiếm bờ đông sông Mekông
Sau khi đánh tan sức kháng cự của quân Khmer Đỏ, các lực lượng Việt Nam thuộc Quân khu 5 nhanh chóng hành tiến theo đường 19, sư đoàn 309 quét sạch tỉnh Ratanakiri, phía Bắc tỉnh Mondolkiri và tiến vào phía Bắc tỉnh Stung Treng. Sư đoàn 307 tiến theo đường 19, dùng cầu phao vượt sông Serepok và sông Mekong. Tới ngày 1/1/1979, lực lượng Quân khu 5 tiến dọc sông Mekong chiếm được Stung Treng.
Cùng thời gian này, Sư đoàn 5 thuộc Quân khu 7 tiến từ hướng đông, cùng Sư đoàn 303 tiến theo hướng tây bắc từ Snuol cùng đánh vào Kratié do Sư đoàn 260 và 2 trung đoàn địa phương của đặc khu 505 phòng thủ. Ngày 29 tháng 12, thành phố Kratié được giải phóng. Cùng lúc, Sư đoàn 302 tiến về phía Tây đã chiếm được Kampong Cham. Sau đó, hai Sư đoàn 302 và 303 cùng quay lại đánh chiếm thị xã Chhlong. Kể từ đó, lãnh thổ Campuchia ở phía đông sông Mekong đã nằm trong tầm kiểm soát của QĐND Việt Nam.
Sáng ngày 31/12, được pháo binh bắn yểm trợ, xe tăng và bộ binh Quân đoàn 3 Việt Nam tiến công và nhanh chóng đánh tan 5 sư đoàn quân Khmer Đỏ trên toàn tuyến phòng thủ dọc theo biên giới ở tỉnh Kampong Cham. Tới cuối ngày, trừ sở chỉ huy quân Khmer Đỏ, toàn bộ các cứ điểm còn lại thất thủ, quân Khmer Đỏ rút chạy về thị trấn Kampong Cham ở bờ tây sông Mekong, bị quân Việt Nam truy kích ráo riết.
Không quân Việt Nam cũng tham chiến, tấn công vào tuyến phòng thủ của Khmer Đỏ và ném bom phá hủy một sân bay mà từ đó máy bay T-28 Khmer Đỏ vẫn xuất kích ném bom vào quân tiền phương Việt Nam. Sáng ngày 1 tháng 1 năm 1979, sau khi tập hợp lại lực lượng, Quân đoàn 3 đánh chiếm sở chỉ huy Khmer Đỏ sau một giờ. Tướng Kim Tuấn hạ lệnh cho các đơn vị dưới quyền truy quét và tiêu diệt các lực lượng Khmer Đỏ còn sót lại.
Tới ngày 3 tháng 1, Sư đoàn 320 (Sư đoàn Đông Bằng) đã tiến tới bờ đông của bến phà Kampong Cham trên sông Mekong. Tại đây, sư đoàn dừng lại, rồi dùng 2 đại đội xe bọc thép mở đường, đánh về phía nam, chiếm thủ phủ tỉnh Prey Veng.
Trong thời gian đó, ngày 28/12, ở hạ lưu đồng bằng sông Mekong, lực lượng Khmer Đỏ thuộc Quân khu Đông Nam mở cuộc tấn công dọc biên giới. Sáng ngày 31 tháng 12, sư đoàn 4 của Quân khu 9 và Trung đoàn 9 của Sư đoàn 304 (Sư đoàn Vinh Quang) phối thuộc mở cuộc phản công. Sau 24 giờ giao tranh kịch liệt, quân Việt Nam đã đánh lui quân Khmer Đỏ khỏi bờ tây kênh Vĩnh Tế.
Chiều ngày 1/1, được pháo binh và không quân yểm trợ, Lữ đoàn công binh 219 thuộc Quân đoàn 2 bắc cầu phao vượt sông. Sư đoàn 304 và Lữ đoàn xe bọc thép 203 mở đường tiến vào đất Campuchia. Tới trưa ngày 3 tháng 1, Quân đoàn 2 và Quân khu 9 đã tiêu diệt hoặc đánh tan tất cả các lực lượng Khmer Đỏ ở hạ lưu sông Mekong dọc biên giới. Sở chỉ huy Quân khu Tây Nam của Khmer Đỏ phải rút về Takeo.
Sau ba ngày tấn công, tại hướng chủ yếu Tây Ninh, Quân đoàn 4 với sự yểm trợ của không quân, trực thăng, pháo binh, hải quân, thiết giáp… quân đội Việt Nam đánh bật được quân Khmer Đỏ khỏi các vị trí Năm Căn, Hòa Hội dọc theo tỉnh lộ 13, và các đơn vị của các Sư đoàn 703, 340, 221 của Khmer Đỏ phải rút về thành lập một tuyến phòng thủ mới tại Svay Rieng, tập trung ở cầu Don So.
Được 15 xe tăng và xe bọc thép mở đường, cùng với pháo 105mm, 155mm bắn yểm trợ, Sư đoàn 7 của Quân đoàn 4 mở cuộc tấn công vào quân Khmer Đỏ ở Don So. Tới đêm ngày 1/1, Thượng tướng Hoàng Cầm hạ lệnh cho Sư đoàn 7 tung hết lực lượng dự bị vào trận. Quân Khmer Đỏ kháng cự dữ dội, nhưng sau khi bị đánh thua ở Tây Ninh, quân Khmer Đỏ đã bị mất tinh thần; hơn nữa, do phải chấp nhận một trận đánh quy ước với một địch thủ có hoả lực, quân số và kinh nghiệm chiến trường trội hơn quá nhiều nên quân Khmer Đỏ bị tan rã.
Tuyến phòng thủ Svay Rieng bị vỡ ngày 2/1/1979, quân Khmer Đỏ phải rút về Prey Veng và Neak Luong, chỉ để lại một số đơn vị đánh cầm chân Quân đoàn 4.
Tới ngày 2/1/1979, quân đội Việt Nam đánh tan các sư đoàn chủ lực của Khmer Đỏ án ngữ các trục đường số 1, 7 và 2 ở lối vào Phnom Penh. Chiều ngày 3 tháng 1, Sư đoàn 7 chiếm được cầu Don So và tới ngày 4 tháng 1 đã làm chủ toàn bộ vùng phía đông sông Mekong. Tới ngày 5 tháng 1, Sư đoàn 7 tiến đến Neak Luong.
Giải phóng Phnom Penh
Ngày 6/1, các đơn vị Việt Nam vượt sông Mekong qua ngả Neak Luong và bắc Kompong Cham. 9 sư đoàn quân Việt Nam làm thành hai gọng kìm tiến vào Phnom Penh từ phía Đông Nam và phía Bắc: Sư đoàn 7 và Sư đoàn 2 di chuyển theo quốc lộ 1, Sư đoàn 9 tiến song song bảo vệ sườn phía nam và Sư đoàn 341 bảo vệ sườn phía bắc.
Tại Kompong Cham, Quân đoàn 3 của Thiếu tướng Kim Tuấn cũng chiến đấu quyết liệt với quân Khmer Đỏ để vượt sông. Quân Khmer Đỏ thiết lập trận địa phòng ngự dọc bờ tây sông Mekong. Thiếu tướng Kim Tuấn quyết định dùng hỏa lực áp đảo bắn vào trận địa phòng thủ của quân Khmer Đỏ, rồi cho thả khói mù, dùng thuyền chuyển quân sang bờ tây. Đến 8h30 sáng, Kampong Cham thất thủ.
Ngay trong sáng ngày 6 tháng 1, lực lượng đột kích Phnom Penh, gồm Trung đoàn 28 của Sư đoàn 10 và các đơn vị phối thuộc, dẫn đầu bởi 6 xe lội nước và một số xe thiết giáp M-113 vượt sông, tổng cộng lực lượng lên đến 120 xe quân sự. Lực lượng đột kích vừa hành quân vừa chiến đấu với các ổ phục kích của quân Khmer Đỏ, tới chiều tối đã tới bờ sông Tonglé Sap và tổ chức đánh vượt sông để tiến vào Phnom Penh.
Trong khi đó, ngày 6/1/1979, những đơn vị đầu tiên của Sư đoàn 7 Quân đoàn 4 chiếm được bờ phía đông của bến phà Neak Luong. Quân Campuchia trong khi rút lui vội vã đã không kịp thiết lập công sự phòng thủ. Trong đêm, cách bến phà khoảng hai cây số về phía nam, Trung đoàn 113 cùng Trung đoàn 14 của Sư đoàn 7 được tàu đổ bộ đưa sang bên kia sông, tiến chiếm bờ phía tây của bến phà.
Ngày 7/1, toàn bộ đội hình Quân đoàn 4 tiến hành vượt sông. Do sự tan rã nhanh chóng của lực lượng phòng thủ biên giới và sự chủ quan của Pol Pot, quân đội Việt Nam tiến vào Phnom Penh từ Neak Luong mà không gặp sức chống cự đáng kể nào. Trưa ngày 4/1, Quân đoàn 4 đã có thể bắt tay với Quân đoàn 3 ở ngoại ô phía bắc Phnom Pênh.
Việc quân Việt Nam tiến quá nhanh khiến cho Khmer Đỏ chỉ kịp sơ tán bộ máy lãnh đạo. Son Sen chạy xuyên qua mặt trận, ngược về phía Việt Nam để tập hợp tàn quân của các sư đoàn thuộc quân khu miền Đông. Pol Pot, Nuon Chea và Khieu Samphan được vài chiếc xe Jeep chở quân bảo vệ chạy về Pursat. Ieng Sary chạy về Battambang trên một chuyến xe lửa đặc biệt chở vài trăm nhân viên Bộ ngoại giao.
Việc rút lui khẩn khiến nhiều Bộ khác cùng hàng ngàn nhân viên không được thông báo về cuộc rút lui. Các chuyến xe tiếp theo sơ tán Phnom Penh bị tắc nghẽn bởi quá nhiều người tìm cách bỏ chạy. Như vậy, với việc ban lãnh đạo sơ tán, khoảng 40 ngàn dân chúng và binh lính Khmer Đỏ tại Phnom Penh, cũng như các đơn vị quân phòng thủ các mục tiêu lân cận bị bỏ mặc, tự thân vận động.
Đánh đuổi Polpot trên toàn Campuchia
Ngày 7/1, quân Việt Nam chiếm sân bay Kampong Chonang và bắt được 10 máy bay A-37, 3 C-123K, 6 C-47, 3 Alouette III cùng một số T-28. Ngoài ra Khmer Đỏ cũng bỏ lại hàng trăm xe tăng và xe bọc thép, rất nhiều đạn dược và lương thực dự trữ chiến lược.
Ngày 8/1, Hội đồng Nhân dân Cách mạng Campuchia do Heng Samrin làm Chủ tịch đã được thành lập với sự hậu thuẫn của Việt Nam.
Ở phía Bắc, các sư đoàn của Quân đoàn 3 cũng tiến xuống Phnom Penh, sau đó Sư đoàn 320 theo quốc lộ 4 xuống các tỉnh phía nam. Các sư đoàn còn lại theo các quốc lộ 5 và 6 tiến về hướng Tây và hướng Bắc.
Tại mặt trận phía nam, từ An Giang, quân Việt Nam bắt đầu vượt biên giới vào ngày 3/1/1979 và tấn công theo hai hướng. Hướng thứ nhất, Sư đoàn 325 (Sư đoàn Bình Trị Thiên) và Sư đoàn 8 tiến về phía Tây, dọc theo quốc lộ số 2. Ngày 5/1/1979, trong khi lực lượng Quân khu 9 tiến đánh Takeo, sư đoàn 325 bắt đầu hành tiến theo hướng Tây Bắc. Cùng lúc đó tướng Nguyễn Hữu An cũng tung Sư đoàn 8 theo hướng tây để đánh chiếm quận lỵ Kampong Trach, nằm ở giao điểm với đường quốc lộ ven biển.
Nắm quyền chỉ huy trực tiếp trung đoàn xung kích 24, Trung tướng Nguyễn Hữu An dẫn trung đoàn tiến từ Tuk Meas về Chhuk. Các xe tăng hạng nặng, xe tải và trọng pháo di chuyển khó khăn trên đường đất và ruộng lúa. Tới chiều ngày 7 tháng 1, lực lượng xung kích đã ra đến đường số 3 và trong quá trình tiến công, đã đánh tan sư đoàn quân Khmer Đỏ phòng ngự Chhuk.
Trong hai ngày 4, 5 tháng 1/1979, từ đảo Phú Quốc, hai phân đội Hải quân Việt Nam gồm một số tàu tuần tiễu loại lớn, hai tàu khu trục Petya cùng nhiều tàu chiến nhỏ chuẩn bị chuyển Lữ đoàn Hải quân 101 và 126 đổ bộ. Hải quân cũng lập trận địa pháo 130mm ở mũi đảo Phú Quốc để yểm trợ cho lực lượng đổ bộ.
Xẩm tối ngày 6/1, toán quân đặc công gồm 87 người bí mật đổ bộ và tấn công chiếm một trận địa pháo Khmer Đỏ bảo vệ bờ biển; cùng lúc, pháo 130mm bắt đầu bắn phá các vị trí quân Khmer Đỏ. Số tàu phóng lôi Khmer Đỏ chạy thoát khỏi cuộc hải chiến và các cuộc không kích của không quân Việt Nam, đến ngày 16/1 lại bị Hải quân Việt Nam chặn đánh trong vịnh Thái Lan và bị tiêu diệt gần hết.
Tối ngày 7/1, Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126 tiến hành đổ bộ ở chân núi Bokor, nằm ở khoảng giữa thị xã Kampot và cảng Sihanoukville.
Hướng thứ hai, Quân khu 9 phụ trách, tiến về phía Bắc đánh chiếm hai thị xã Tan và Takéo. Các sư đoàn Khmer Đỏ trấn giữ quân khu Tây Nam như Sư đoàn 2, 210, 230, 250, bị tan rã và rút lui vào rừng.
Cuối tháng 1/1979 cuộc phản công kết thúc thắng lợi. Đến ngày 17/1 thị xã cuối cùng là Ko Kong rơi vào tay quân đội Việt Nam và chính quyền mới của Campuchia. Cho tới cuối tháng 3, quân đội Việt Nam coi như chiếm được hết những thành phố và tỉnh lỵ quan trọng của Campuchia và tiến sát tới biên giới Thái Lan. Tuy nhiên tàn quân Pol Pot vẫn tiếp tục chống cự và quấy nhiễu. Quân tình nguyện Việt Nam đã có 10 năm truy quét tàn quân Pol Pot và giúp nhân dân Campuchia xây dựng chính quyền cách mạng, ổn định cuộc sống.
Thành lập chính quyền mới
Ngày 5/1/1979, có 66 đại biểu Campuchia được triệu tập họp ở Mimot để bàn về việc thành lập một đảng cộng sản Campuchia mới. Đảng này lấy lại tên Đảng Nhân dân Cách mạng có từ thời 1951. Những Ủy viên thường vụ của đảng gồm Hun Sen, Bou Thoong, Chan Kiri, Heng Samrin và Chia Soth.
Ngày 8/1/1979, đài phát thanh Phnom Penh loan báo Phnom Penh đã được giải phóng bởi những lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia. Một Hội đồng cách mạng được thành lập do Heng Samrin làm chủ tịch. Khoảng mười ngày sau, hội đồng này ký một hiệp ước với Việt Nam, hợp thức hóa sự hiện diện của quân đội Việt Nam trên đất Campuchia.
Tới mùa xuân 1981, hiến pháp mới của Campuchia được thông qua, sau đó là cuộc bầu cử toàn quốc để chọn ra 117 đại biểu quốc hội. Hun Sen được bầu làm Bộ trưởng Ngoại giao, Heng Samrin làm Chủ tịch nước. Ba sư đoàn mới được thành lập và đặt dưới Bộ Quốc phòng, nhưng an ninh vẫn được duy trì chủ yếu dựa vào sự hiện diện của 180.000 quân Việt Nam mà lực lượng chủ chốt là Quân đoàn 4 do đại tướng Lê Đức Anh chỉ huy.
Chính quyền mới của Campuchia chỉ được một số nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa công nhận.
Từ năm 1979 đến giữa năm 1985, quân đội Việt Nam thực hiện các chiến dịch quân sự truy quét đánh phá các căn cứ của Khmer Đỏ. Tháng 1/1980, chiến dịch quân sự nhằm vào Khmer Đỏ tại Phnom Chhat bắt đầu. Thời gian này, Khmer Đỏ bắt đầu tái xâm nhập Campuchia từ Thái Lan với khoảng 3-4 ngàn quân. Khi mùa mưa tới, Khmer Đỏ đã tái tổ chức lực lượng, chỉ huy và huấn luyện, bắt đầu các cuộc giao tranh qui mô nhỏ như đánh du kích, phục kích, pháo kích quấy rối.
Tới năm 1985, Việt Nam huy động khoảng 60 ngàn quân cho chiến dịch tấn công, cùng với hàng chục ngàn dân công Campuchia xây đường và mở rộng các sân bay dã chiến tại khu vực biên giới. Cuối tháng 12/1984, khoảng 1.000 quân Việt Nam đánh hạ căn cứ Nong Samet.
Tháng 1/1985, khoảng 4.000 quân Việt Nam, với hơn 30 xe tăng và xe bọc thép hỗ trợ, đánh vào căn cứ Ampil của lực lượng KPNLF với 5.000 quân phòng ngự và triệt hạ hoàn toàn căn cứ này sau 36 giờ. Quân Việt Nam và quân chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia cũng mở chiến dịch triệt hạ căn cứ lớn của Khmer Đỏ tại Phnom Malai. Chiến dịch mùa khô năm 1984-1985 là chiến dịch lớn chưa từng có của Việt Nam kể cả về qui mô, thời gian và mức độ thành công.
Kể từ năm 1986, các lực lượng này về cơ bản không thể là mối đe dọa lớn đối với chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia được nữa.
Năm 1989, Cộng hòa Nhân dân Campuchia đã đủ mạnh để tự bảo vệ. Tháng 12 cùng năm, Quân đội nhân dân Việt Nam hoàn thành nghĩa vụ quốc tế, rút toàn bộ khỏi Campuchia.
Campuchia hồi sinh mạnh mẽ
Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Hoàng gia Campuchia Men Sam On từng nói: “Nhắc lại chiến thắng ngày 7/1, Campuchia không thể quên sự hy sinh to lớn của quân tình nguyện Việt Nam trên đất nước mình. Mồng 7/1 là ngày sinh thứ hai của Campuchia”.
Chiến thắng Tập đoàn Polpot, dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng sau thời kỳ đen tối 3 năm 8 tháng 20 ngày dưới chế độ Khmer Đỏ. Hơn 2 triệu người dân Campuchia đã bị giết hại, mọi cơ sở xã hội bị xóa bỏ tận gốc trong thời gian này vì chính sách lãnh đạo cực đoan, tàn bạo, cưỡng bức người dân, bắt lao động khổ sai của Polpot.
Nhắc lại chiến thắng này, nhân dân Campuchia không thể nào quên công ơn của các chiến sĩ cứu quốc Campuchia, mặt trận giải phóng Campuchia và sự hy sinh to lớn của quân tình nguyện Việt Nam, các chuyên gia Việt Nam trên đất nước Campuchia.
Trong những tháng ngày đen tối đó, Polpot cũng có dã tâm phát động cuộc chiến tranh đẫm máu xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ Việt Nam. Đáp lại lời kêu gọi khẩn thiết của Mật trận Đoàn kết Cứu nước Campuchia, của nhân dân Campuchia anh em, Đảng, Nhà nước dân dân và quân đội Việt Nam đã thực hiện quyền tự vệ chính đáng bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng và giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, đưa đến thắng lợi ngày 7/1/1979. Với thắng lợi đó, nhân dân Campuchia đã khép lại một trang lịch sử đen tối và mở ra kỷ nguyên độc lập, hòa bình, tự do và phát triển.
36 năm qua, Campuchia đang chuyển mình mạnh mẽ để trở thành một quốc gia năng động, đầy tiềm năng, thống nhất và tiến lên bình đẳng xã hội. Campuchia đã góp phần vào sự phát triển hòa bình, ổn định của khu vực và thế giới. Thủ tướng Chính phủ Hoàng gia Campuchia Hun Sen cũng khẳng định lập trường của Campuchia về quyết tâm tăng cường, củng cố mối quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện lâu dài với Việt Nam.
36 năm là một chặng đường vẻ vang rất đỗi tự hào của mối quan hệ láng giềng hữu nghị, truyền thống tốt đẹp của hai nước. Nhìn lại chặng đường qua, quan hệ tốt đẹp giữa hai nước đang ngày càng đơm hoa kết trái; kết quả hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư và nhiều lĩnh vực khác đã và đang mang lại hiệu quả thiết thực, ngày càng đi vào thực chất. Những thành tựu đó không chỉ mang lại niềm hạnh phúc cho nhân dân mỗi nước mà còn vì hòa bình, ổn định, hợp tác phát triển ở khu vực và thế giới.
Trong 10 năm (1979 – 1989), chuyên gia Việt Nam đã tận tụy đem hết tài năng, trí tuệ giúp cách mạng Campuchia, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế trọng đại với tinh thần vô tư trong sáng cao cả chưa có tiền lệ trong lịch sử ngoại giao thế giới. Qua đó, hai nước càng hiểu rõ hơn tình hữu nghị, đoàn kết của hai dân tộc. Đó thật sự là mối quan hệ láng giềng thủy chung son sắt.

Thứ Sáu, 10 tháng 11, 2017

Ân tình nước Nga

Trong tuần này, dõi theo các thông tin từ Hội nghị thượng đỉnh APEC đang diễn ra tại Đà Nẵng, điều gây ấn tượng nhất với người dân Việt Nam có lẽ không phải là các chương trình, dự án lớn của hội nghị, những dàn siêu xe, những chuyên cơ...của các nguyên thủ mà chính là món quà trị giá 5 triệu USD của Tổng thống Nga Putin đã tặng cho đồng bào miền Trung trong những ngày đang rất khó khăn
.

Vài ngày trước khi tới dự Hội nghị APEC, nắm được tình hình bão lũ nghiêm trọng tại các tỉnh miền Trung Việt Nam, Tổng thống Nga Putin đã có một cử chỉ thực sự mang tầm cỡ của một nguyên thủ siêu cường: Ông đã ngay lập tức chỉ đạo nội các cấp các khoản viện trợ bao gồm 5 triệu USD tiền mặt để giúp Việt Nam khắc phục hậu quả nặng nề mà cơn bão Damrey gây ra ở các tỉnh miền Trung.
Cử chỉ của Tổng thống Putin chắc chắc không phải là bột phát mà là hành động thường thấy ở ông trên cương vị nguyên thủ của cường quốc mà người ta vẫn được thấy trong suốt thời gian ông nắm quyền lãnh đạo cao nhất của nước Nga. Trong tháng 6 vừa rồi, người dân Việt Nam cũng đã bày tỏ sự ngưỡng mộ với ông khi để đầu trần, không che ô khi viếng mộ liệt sĩ vô danh trong cơn mưa tầm tã.
Tất nhiên, việc tặng món quà rất có ý nghĩa trên cho người dân miền Trung Việt Nam cũng thể hiện tình cảm của không chỉ của ông với Việt Nam mà cũng thể hiện tấm lòng của người dân Nga với Việt Nam, qua vị đại diện lãnh đạo cao nhất của mình. Nước Nga và Việt Nam vốn có mối quan hệ sâu sắc, thủy chung qua hàng thập kỷ. Trong những năm tháng chiến tranh, những trợ giúp to lớn, về nhiều mặt của nước Nga đã giúp cho Việt Nam đứng vững và giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc. Thì nay, hành động cao thượng của Tổng thống Nga cũng sẽ làm sâu đậm thêm quan hệ ngoại giao 2 nước, thắt chặt tình cảm lãnh đạo và nhân dân 2 nước.
Ngay sau khi Dân trí đăng tin này, cũng không phải bất ngờ khi có hàng trăm bình luận (comment) của bạn đọc các vùng miền gửi tới Dân trí. Tất cả đều bày tỏ sự xúc động, trân trọng trước tình cảm người dân Nga và cá nhân Tổng thống Putin. Nhất là những bạn đọc cho biết họ có thời gian học tập, làm việc tại Nga, nhiều người cho biết, cảm xúc, sự kính trọng của họ dành cho Tổng thống Nga, dành cho nước Nga càng cao lên bội phần.
Với các tỉnh miền Trung lúc này, nhiều nơi lũ vẫn chưa rút, những khó khăn về đi lại, tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm, thuốc men...cho hàng vạn người dân vẫn còn rất nghiêm trọng, chưa kể, bóng tối của một cơn bão mới- cơn bão số 13 đang kéo đến gần thì món quà tình nghĩa trên của Tổng thống Putin càng khiến bao người dân xúc động và kính nể.
Ngày nay, tình hình chính trị thế giới liên tục thay đổi, quan hệ các nước lúc ấm, lúc lạnh nhưng chỉ với cử chỉ tuyệt vời trên cũng đều khiến bao người dân Việt Nam càng thêm tin tưởng, rằng quan hệ Nga- Việt sẽ luôn chân thành, bền vững, sâu sắc dù thời gian có đổi thay. Và với những người lãnh đạo có tâm, có tầm như Putin, nước Nga sẽ luôn là một cường quốc hàng đầu của thế giới.

Chủ Nhật, 5 tháng 11, 2017

Vladimir Putin - người làm sống dậy nước Nga hùng cường


Người Mỹ có thể nghĩ họ nhìn nhầm Tổng thống Vladimir Putin khi ông vừa đắc cử lần đầu năm 2000, nhưng người Nga từ đó đến nay vẫn không tỏ ra nuối tiếc sự lựa chọn này.


Với phương Tây, Tổng thống Nga Vladimir Putin là một chính trị gia gây tranh cãi. Từ cách ông can thiệp vào những xung đột trên thế giới đến việc ông điều hành trong nước, Putin đều gây tranh cãi. Điều duy nhất người ta có thể đồng ý nhau là rất hiếm lãnh đạo thế giới hiện đại có tầm ảnh hưởng như Putin.
Ông sống giữa những biến cố quan trọng của thời đại như sự sụp đổ của Bức tường Berlin, ông nắm quyền ở Nga qua 3 đời tổng thống Mỹ, ông đưa nước Nga trở lại vũ đài chính trị thế giới. Ông buộc thế giới phương Tây, những người tưởng đã thắng hoàn toàn trong Chiến tranh Lạnh, một lần nữa phải e dè nhìn nước Nga. Khi Putin đến Việt Nam để dự Tuần lễ Cấp cao APEC 2017, ông sẽ là nhà lãnh đạo từng tham dự nhiều kỳ APEC nhất.
Ngày 31/12/1999, tổng thống đầu tiên của Nga, ông Boris Yeltsin bất ngờ tuyên bố thoái vị và trao quyền lại cho thủ tướng khi đó, Vladimir Putin, một cựu điệp viên KGB và là cái tên ít người biết đến thời bấy giờ. Trước khi kỷ nguyên của Putin bắt đầu trên nước Nga, chỉ trong 2 năm người Nga đã nhìn thấy đến 5 thủ tướng ra đi dưới sự nắm quyền của Tổng thống Yeltsin. Những cuộc “thay thủ tướng như thay áo” cùng hình ảnh ông Yeltsin mặt đỏ gay và đi lại chao đảo như biểu hiện cho một nước Nga hỗn loạn chưa thể gượng dậy được sau sự sụp đổ của Liên Xô.
Trong hơn 17 năm, Putin từ một tổng thống được Yeltsin lựa chọn để kế nhiệm trở thành người chiến thắng thuyết phục trong các cuộc bầu cử và duy trì mức tán thành cao trong dân chúng. Cũng trong 17 năm đấy, người cựu điệp viên KGB đã trở thành một trong những nhà lãnh đạo có khả năng xoay chuyển trật tự thế giới.
Trong phim tài liệu The Most Powerful Man in the World (tạm dịch: Người đàn ông quyền lực nhất thế giới) do CNN thực hiện năm 2017, Fareed Zakaria bình luận rằng Putin hiểu nước Nga, hiểu “chúng ta” (người Mỹ) và thế giới.
Với người Mỹ
Người Mỹ đã thích Putin, từ cựu tổng thống George W. Bush cho đến các “ngôi sao” Hollywood. Khi ông thay thế Boris Yeltsin để bước vào Điện Kremlin, người Mỹ đã thấy ở ông một vị tổng thống của tương lai. Một tương lai hòa hợp, theo nghĩa Mỹ sẽ gây ảnh hưởng lên Nga.
“Tôi nhìn vào mắt ông ấy. Tôi thấy một người đàn ông thẳng thắn và đáng tin”, cựu tổng thống Bush nói vào năm 2001.
Đó là giai đoạn người Mỹ tưởng rằng Chiến tranh Lạnh đã kết thúc hoàn toàn, giai đoạn khi nước Nga vẫn chưa vực dậy được sau sự sụp đổ của Liên Xô trong khi văn hóa đại chúng Mỹ – từ McDonald’s đến Coca Cola – thống trị đời sống người Nga. Người Mỹ hẳn đã mơ về tương lai tương tự với Tổng thống Putin. Nhưng Putin thì không nghĩ vậy.
Dù thế, giai đoạn tốt đẹp trong quan hệ Mỹ – Nga kéo dài khá lâu, từ sau 2 nhiệm kỳ của ông Putin sang đến khi Dmitry Medvedev lên làm tổng thống còn Putin lui về làm thủ tướng vào tháng 5/2008. Năm 2012, khi Mitt Romney ra tranh cử tổng thống, ông nói Nga là một mối đe dọa lớn với Mỹ. Không ai tin Romney và Barack Obama đắc cử nhiệm kỳ thứ 2.
Chỉ vài năm ngắn ngủi sau đó, Putin thể hiện rõ rằng nước Nga sẽ không yên phận ở trong tầm ảnh hưởng của Mỹ. Năm 2014, nước Mỹ và cả thế giới phương Tây chứng kiến cuộc sáp nhập thần tốc của Crimea vào Nga, bất ổn ở miền Đông Ukraine với sự nổi dậy của những lực lượng thân Nga. Đến năm 2015, cuộc can thiệp của Nga vào nội chiến Syria đã đánh bại nhiều nhóm nổi dậy do Mỹ hậu thuẫn…
Năm 2014 cũng là thời điểm các lãnh đạo Nga – Mỹ thừa nhận quan hệ song phương xuống mức xấu nhất kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc.
Tới 2017, trong lúc Nga xây cây cầu nối liền lục địa với bán đảo Crimea, nước Mỹ đã thay tổng thống. Nhưng quan hệ 2 nước vẫn xấu. Tổng thống mới Donald Trump tiếp tục phê chuẩn lệnh trừng phạt Nga.
Gần đây, trong một cuộc thảo luận ở Sochi hồi tháng 10, Putin nói rằng sai lầm lớn nhất của các lãnh đạo Nga hậu Liên Xô là quá tin tưởng Mỹ.
“Lỗi lầm lớn nhất của chúng tôi là đã tin các bạn quá nhiều. Các bạn xem đó là điểm yếu và khai thác”.
“Không may thay, các đối tác phương Tây của chúng tôi, vốn đã chia rẽ di sản địa chính trị của Liên Xô, lại rất chắc chắn về sự chính đáng không thể chối cãi của họ khi tuyên bố mình là người thắng cuộc trong Chiến tranh Lạnh”, ông nói.
Còn người Mỹ thấy rằng hóa ra năm ấy Romney đã đúng còn họ thì đánh giá ông Putin quá thấp.
Với thế giới
“Các anh có nhận ra mình đã làm gì chưa?”, Atlantic dẫn lời tổng thống Nga chất vấn “thế giới tự do phương Tây” trước Liên Hợp Quốc vào tháng 9/2015.
Đó là 5 năm sau Mùa xuân Arab, khi những cuộc bạo lực nổ ra từ phong trào dân chủ mãi chưa thể chấm dứt ở Trung Đông và Bắc Phi, khi liên minh do Mỹ dẫn đầu, sau khi hậu thuẫn các lực lượng nổi dậy, mãi vẫn không thể tìm được lối ra cho khu vực này. Từ Bức tường Berlin đến Cách mạng Màu, Putin đã không nhìn nhận thế giới theo cách mà phương Tây nhìn nhận. Thay vì ca ngợi sự sụp đổ của những chế độ độc tài, ông lên án những bất ổn phương Tây đã hậu thuẫn tạo nên.
“Tôi tin rằng”, ông nói trong bộ phim tài liệu World Order (tạm dịch: Trật Tự Thế Giới), “không ai nên áp đặt bất cứ loại giá trị nào mà hắn ta cho đúng lên người khác. Chúng ta có giá trị riêng, cách tri nhận riêng đối với công lý”.
“Tôi không nói thẳng với Obama. Nhưng tôi đã nói họ hãy hành động cẩn thận. Việc áp đặt hệ thống ý tưởng tốt xấu – trong trường hợp này là tốt và cả dân chủ – lên người khác là không đúng”.
“(Những nơi) có văn hóa khác biệt, tôn giáo khác biệt và truyền thống riêng. Nhưng nói thẳng ra không ai lắng nghe tôi, có vẻ như họ cho bản thân họ là vĩ đại và không thể sai lầm”, ông Putin nói với người dẫn chuyện Vladimir Solovyov trong World Order.
Nhà bình luận chính trị người Mỹ David Brooks từng viết rằng Vladimir Putin, cũng như nhiều nhà lãnh đạo mạnh mẽ khác, chia sẻ một quan điểm cốt lõi về thế giới rằng cuộc sống là một cuộc tranh đấu trần trụi để giành lấy sự thống trị. Có thể vì ông đã ở ngay tâm điểm của biến cố lớn nhất của nửa cuối thế kỷ 20, sự sụp đổ của Bức tường Berlin. Khi đó, ông Putin là một điệp viên trú tại văn phòng KGB ở Dresden. Vài tuần sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, một đám đông giận dữ đã lao đến tòa nhà KGB với ý định xông vào cướp phá. Khi người đứng đầu KGB ở Dresden đi vắng và “Moscow im lặng” trước những biến cố ở Đông Đức, Putin đã tự tay đốt những tài liệu mật có trong tòa nhà và bước ra ngoài để ngăn cản đám đông hỗn loạn.

Với nước Nga
Mặc cho lời chỉ trích từ phương Tây và những người đối lập trong nước, những người ủng hộ ca ngợi Putin là người đã đứng lên trước phương Tây để bảo vệ nước Nga. Và tỷ lệ người ủng hộ ông trong nước thường đạt mức trên 80%, ngay cả trong những cuộc thăm dò dư luận do các hãng phương Tây tiến hành. Trong thời gian kinh tế Nga khủng hoảng vì những lệnh trừng phạt của phương Tây, tỷ lệ ủng hộ đối với ông ở mức đáng ghen tỵ cho bất cứ chính trị gia phương Tây nào. Có lẽ vì sau những năm tháng hỗn loạn hậu Liên Xô, Putin đã đưa nước Nga trở lại với người Nga, một nước Nga hùng mạnh như trước khi Chiến tranh Lạnh kết thúc.
Dưới thời Putin, người Nga đã sống dưới một nền kinh tế tăng trưởng tốt hơn, một giai đoạn mà người ta cuối cùng đã chịu sinh con đẻ cái lại. Quan trọng nhất, họ tìm thấy một nhà lãnh đạo có thể đại diện cho đất nước trước thế giới, một người có thể đưa Nga khỏi cái bóng của phương Tây và khôi phục lòng tự hào trong người Nga về cường quốc của họ. Từ hình tượng cá nhân đến cách ứng xử trong đối ngoại, từ những trận đấu judo đến chiến dịch can thiệp vào Syria, Putin đều là người lãnh đạo mạnh mẽ mà người Nga chờ đợi.
Năm 2014, bằng việc thách thức trật tự thế giới được thiết lập từ sau Chiến tranh Lạnh, Putin đã đưa nước Nga trở lại bản đồ chính trị thế giới. Mặc cho những chỉ trích của dư luận thế giới, cuộc sáp nhập Crimea là sự phản ứng mạnh mẽ nhất của ông Putin đối với việc NATO tiến dần về phía đông, điều ông xem là sự đe dọa đối với Nga.
“Quá trình mở rộng NATO không liên quan gì việc hiện đại hóa liên minh… Chúng tôi có quyền thắc mắc: ‘Sự mở rộng này nhằm chống lại ai?'”, Tổng thống Putin nói vào năm 2014.
Cuối năm 2015, khi Nga tuyên bố ủng hộ Tổng thống Syria Bashar al-Assad trong cuộc nội chiến Syria và hỗ trợ lực lượng chính phủ Syria không kích các lực lượng nổi dậy và khủng bố, Putin đã lần đầu tiên đưa quân Nga thực hiện sứ mệnh viễn chinh kể năm 1979. Sự kiện này đầy tính biểu tượng, đánh dấu sự trở lại của Nga trên vũ đài thế giới và từ chối cho phương Tây quyền can thiệp vào nội bộ bất cứ nước nào họ muốn. Và cũng tương tự cuộc sáp nhập Crimea, Putin khiến cả thế giới ngỡ ngàng với sự dứt khoát và tính toán chuẩn xác của ông.
Gần đây, khi được các em học sinh hỏi về sự kiện đã để lại ảnh hưởng lớn nhất trong đời mình, Putin nói rằng đó là sự sụp đổ của Liên Xô vào năm 1991. Trước đó, ông cũng gọi sự kiện này là “thảm kịch địa chính trị khủng khiếp nhất thế kỷ 20”.
Cuối cùng, ngay cả những người ghét Putin cũng phải thừa nhận trong 17 năm kể từ khi Putin lên nắm quyền lần đầu tiên ở Nga, nước Nga đã tiến một bước dài so với sự hỗn loạn của thời đại Boris Yeltsin. Người Mỹ có thể nghĩ rằng họ nhìn nhầm Putin, nhưng người Nga quả thật đã có vị tổng thống của tương lai.
Tổng thống Putin vẫn chưa xác nhận việc ông có ra tái tranh cử tổng thống vào mùa xuân năm tới hay không. Quyết định này của ông sẽ ảnh hưởng đến cục diện thế giới trong nhiều năm nữa.
Theo TRI THỨC TRỰC TUYẾN

Thứ Năm, 2 tháng 11, 2017

VIỆT TÂN - ĐÃ NGU CÒN TỎ RA NGUY HIỂM


Ngày 12 tháng 7 vừa qua, Tòa trọng tài quốc tế ở La hay, Hà Lan đã chính thức công bố phần thắng trong vụ kiện giữa Trung Quốc và Philippines trong vấn đề tranh chấp một số đảo ở Biển Đông thuộc về Philippines. Thực tế, phán quyết của tòa có rất nhiều điều bất lợi cho Việt Nam, và trên lý thuyết pháp lý chúng ta đã mất đi khá nhiều đảo, gây ra rất nhiều yếu tố đặc biệt khó khăn khi Việt Nam đấu tranh đòi chủ quyền. Nhưng thiên hạ lại không mấy ai thèm để ý đến, chỉ với một chiêu đơn giản của phương Tây đã làm cho dư luận trong nước lên cơn sốt, phát rồ vì sung sướng sau cái phán quyết vô thưởng vô phạt ấy, đồng thời nở rộ lên biết bao nhiêu cái gọi là “phong trào ủng hộ công lí được thực thi”. Cũng chính từ sự ngu ngơ dại khờ không hiểu chuyện của một cơ số người mà “con chó” Việt Tân lại nhảy xổ vào như bao lần để rồi tung hỏa mù dư luận, kiếm chác trên chính sự thiếu hiểu biết của nhân dân ta. Liên tiếp trong mấy ngày gần đây, Việt Tân đã ồ ạt tung  tin kiểu“ủng hộ Philippines”, “ủng hộ công lí”, kêu gọi Việt Nam theo chân Phi kiện Trung Quốc, hay mới đây nhất là lời trần tình “nhục nhã” của Việt Tân “thay lời nhân dân Việt Nam”.
viet tan
Việt Tân lấy tư cách gì để đại diện cho nhân dân Việt Nam ?
          Những bài viết mới đọc qua cũng đủ khiến “nổi da gà” khi mà từ trước đến nay, Việt Tân luôn được biết đến với hình ảnh “một con bạch tuộc nhiều vòi”, sử dụng chiêu bài chiến lược là lợi dụng những vấn đề trong nước để xuyên tạc, bịa đặt, hướng lái dư luận và chính kiến của người dân vào con đường chống đối Đảng, nhà nước, vùi dập, nói xấu chế độ, bộ máy chính quyền để rồi “hút máu” dân tộc Việt Nam và kiếm chác từ những “người cha nuôi” bu Mỹ. Ấy vậy mà lần này, từ một kẻ “lòng lang dạ sói” như thế, Việt Tân lại giở giọng “ủng hộ cho hòa bình và chính nghĩa” đã thực sự khiến cho nhiều người không khỏi thốt lên vì sự nực cười đến khinh bỉ cho vụ việc “mèo khóc chuột”, “nước mắt cá sấu” này.
Liệu Việt Tân có thấy hổ thẹn chút nào không khi xúi giục người dân chạy đi ủng hộ cho cái đất nước “ăn cướp” các đảo Thị Tứ và Song Tử Đông của dân tộc Việt Nam rồi ngang nhiên đặt quận huyện trái phép, biến nó thành lãnh thổ của mình? Việt Tân có biết đến cảm giác “nhục nhã” nữa không khi chính từ đây, cái đất nước mà chúng đang kêu gọi ủng hộ đó sẽ có thêm cơ sở pháp lý để tiếp tục ăn cướp công khai biển đảo của Việt Nam, để rồi lấy đất của dân tộc Việt Nam ra mà đàm phán “buôn chia” với Trung Quốc?
Thế nào là nhận giặc làm cha, thế nào là dẫm đạp lên mồ mả của các liệt sĩ đã ngã xuống vì để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ Quốc, thế nào là lợi dụng lòng yêu nước để “chó dại hóa” dư luận, thế nào là đeo silip vào mồm để rồi vì tiền mà sủa càn tiếp tay cho bọn cướp nước? Thiết nghĩ rằng, Việt Tân thừa hiểu. Bởi chính họ có yêu thương quan tâm cái khỉ khô gì tới đất nước Việt Nam này, cái Việt Tân cần chẳng phải là một sự bảo trợ lâu dài để dùng cái mác “dân chủ nhân quyền” ngửa tay xin tiền rồi sống cho qua ngày đó sao!
Rõ ràng, ngu không phải là cái tội, nhưng thể hiện cái ngu đó ra trước mặt người khác là tội rất lớn. Việt Tân có quyền ngu, bởi đó là dân chủ, là nhân quyền, không ai dám và không ai thèm tranh giành “cái quyền ngu” với Việt Tân cả. Cuộc đời cho phép, luật pháp không cấm ai ngu, cũng chẳng đánh thuế hay truy tố ai vì điều đó, tuy nhiên, lỡ may cái ngu đó làm cho người khác khi nhìn thấy phải cười rất nhiều, cười vỡ bụng chết thì làm sao? Càng nói càng lộ cái ngu, lộ cái “bản chất thối tha” của mình, không những không làm cho dân chúng bị kích động, bị mắc bẫy mà còn làm trò hề cho xã hội tẩy chay lên án thì lấy cái gì ra “làm chứng” mà đổi tiền với chóp bu Mỹ đây hỡi Việt Tân ? Là vì cớ gì hay là vì ngày trước bố mẹ chúng nó lỡ hiếp dâm con gì đó mà loài người hay nuôi nên mới lỡ sinh ra cái loại con cái ngu như vậy?
Ngu quá Việt Tân ơi !!!

Thứ Tư, 1 tháng 11, 2017

Bão Linda 1997 - Bài học và nỗi ám ảnh kinh hoàng!

TTO - “Đó là bài học đau đớn của chúng ta về ứng phó với bão, là nỗi day dứt không nguôi đối với tôi. 3.000 sinh mạng con người đã chết và mất tích… Đau đớn, xót xa lắm, day dứt lắm…”.

Đường đi của cơn bão Linda.
Nguyên bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Lê Huy Ngọ mở đầu câu chuyện với Tuổi Trẻ, 20 năm sau bão Linda (2-11-1997) gây tang thương ở Nam Bộ. 
Ông Lê Huy Ngọ với khuôn mặt khắc khổ rất đặc trưng như càng khắc khổ, buồn rầu hơn khi nhắc lại "thảm họa" Linda. 
Dù đã 82 tuổi, nhưng sự đau đớn, nỗi day dứt như vẫn còn nguyên với vị nguyên bộ trưởng, trưởng Ban chỉ huy phòng chống lụt bão trung ương.
Ông Lê Huy Ngọ
Tâm lý chủ quan
* Bão Linda xảy ra lúc ông vừa nhận chức bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Lúc đó, ông đã phản ứng ra sao?
- Tháng 10-1997, tôi nhận chức vụ bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Trưa 1-11, tôi vừa đi công tác về, bước ra xe tôi hỏi ngay: "Mấy hôm ở nhà có vấn đề gì không?". Anh em nói có áp thấp đã mạnh lên thành bão và khả năng đổ bộ vào bán đảo Cà Mau.
Tôi là dân Tĩnh Gia (Thanh Hóa), nhà làm nghề biển, đối mặt với bão nhiều, nghe bão đổ bộ vào phía Nam là thấy có vấn đề rồi. 
Tôi yêu cầu về thẳng bộ, chỉ đạo phải họp khẩn ngay lập tức. Và tôi cũng yêu cầu mời ngay lãnh đạo Bộ Thủy sản, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an qua họp luôn để nắm tình hình, bàn phương án đối phó.


Tại cuộc họp, bên dự báo khí tượng thủy văn trung ương báo cáo bão đã mạnh lên và khả năng đổ bộ vào vùng biển phía Nam, khu vực bán đảo Cà Mau với sức gió có thể lên cấp 8, vượt cấp 8. 
Mà bão đi nhanh, lại dự báo sẽ quét qua vùng ngư trường rộng và vùng dân cư đông đúc, nghèo khó ở dọc các tỉnh ven biển phía Nam.
Tôi hỏi mọi người: "Cái khó khăn nhất lúc này là gì?". Mọi người nói cái khó nhất là phía Nam ít khi hứng bão nên lo ngại công tác thông tin, tuyên truyền đến chính quyền, người dân. 
Chính quyền, người dân có thể không lường hết được sự nguy hiểm của cơn bão này nên có thể có tâm lý chủ quan.
* Với vùng Nam Bộ ít biết bão, tâm lý chủ quan trong phòng chống bão là vấn đề có thể hiểu được. Ông đã xử lý thực tế đó như thế nào?
- Tôi quyết định trưởng Ban chỉ huy phòng chống lụt bão cùng một số thành viên chủ chốt, đại diện lãnh đạo Bộ Thủy sản, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an bay vào ngay khi kết thúc cuộc họp. 
Đồng thời, tôi yêu cầu lập ngay ban chỉ huy túc trực 24/24 giờ tại Bộ NN&PTNT và việc đầu tiên là gọi điện đến lãnh đạo các tỉnh để thông báo và nắm tình hình. Bên cạnh đó, chuẩn bị mọi điều kiện để khi có biến là phải xử lý kịp thời các tình huống.
Tôi nhớ khi đó, theo yêu cầu của tôi, anh em phải điện thoại thẳng đến lãnh đạo các tỉnh. Có quan chức giọng say rượu lè nhè: "Vùng Biển Tây, vùng biển Kiên Giang là thánh địa, xưa nay chưa hề có bão, các anh ở Hà Nội vừa quan liêu vừa không hiểu biết gì về vùng này, làm gì có bão?".
Đúng là khi đó bão đối với người dân phía Nam và ngay với cả lãnh đạo địa phương cũng lạ lẫm lắm. Năm thì mười họa mới có cơn bão đổ vào đây, vì thế tâm lý chủ quan cũng có. 
Tôi không muốn nhắc lại, nhưng khi đoàn chúng tôi đến để chuẩn bị bay ra Côn Đảo phải đợi hơn tiếng đồng hồ chờ một lãnh đạo địa phương vì hôm đó cuối tuần. 
Chúng tôi phải chờ vì địa bàn đó phải có lãnh đạo địa phương đi cùng để chỉ đạo, khi đó tôi cũng chỉ là chân ướt chân ráo vừa về bộ và đảm nhiệm chức bộ trưởng kiêm trưởng Ban phòng chống lụt bão trung ương.
Tìm mọi cách cứu ngư dân
* Và sau đó điều gì đã xảy ra?
- Đến Côn Đảo, chúng tôi ra hiện trường vô cùng lo lắng khi thấy lượng tàu thuyền về quá đông, âu tàu không chứa đủ, rất nhiều tàu thuyền phải đỗ ở ngoài. Khi đó, kinh nghiệm của ngư dân trong neo chằng tàu thuyền cũng chưa có. 
Vì thế khi bão vào, một thuyền bị đánh chìm là kéo theo nhiều tàu thuyền xung quanh chìm theo hoặc đổ nghiêng. 
Dân cũng thiếu kinh nghiệm chằng chống nhà cửa, mái nhà... Bão thì sầm sập vào rồi. Thấy như vậy mà không biết làm gì hơn. Cái này ám ảnh tôi lắm lắm.
Khi bay ra Côn Đảo, từ trên máy bay nhìn xuống thấy còn rất nhiều tàu thuyền của ngư dân ở phía ngoài không cập được vào âu tàu trú tránh bão. 
Bão qua, nhìn hàng trăm tàu thuyền tan nát, chìm, lật nghiêng ngả ở âu tàu, cảnh nhà cửa tan hoang... chúng tôi cực kỳ xót xa.
Điều đầu tiên khi đó tôi nghĩ là phải tìm mọi cách ra cứu hàng ngàn ngư dân cùng tàu thuyền của họ ở ngoài khơi. Rồi chăm lo hậu cần làm sao để người dân trên bờ không bị đói rét.
Lúc đó chưa có chủ trương, chính sách gì, nhưng tôi vẫn quyết định yêu cầu các địa phương huy động mọi tàu thuyền hiện có ra ngoài khơi tìm kiếm, cứu nạn, tiền xăng dầu Nhà nước sẽ hỗ trợ. 
Với chỉ đạo này, trong hơn một tháng, đến cuối tháng 12-1997 lực lượng tàu thuyền các tỉnh Cà Mau, Kiên Giang, Bạc Liêu, Bến Tre, Sóc Trăng đã tìm kiếm, cứu sống gần 5.800 ngư dân đưa vào bờ.
Chỉ trong mấy ngày, từ 2 đến 7-11, chúng ta điều động 30 tàu hải quân, bộ đội biên phòng và 16 lần máy bay của không quân tham gia tìm kiếm, cứu nạn.
* Nhìn lại, bài học gì ông thu được từ trận bão đầu tiên trong "sự nghiệp phòng chống bão lũ" của ông?
- Bài học ở đây là phải nâng cao khả năng ứng phó tại chỗ của người dân và chính quyền. Phải tăng cường công tác thông tin, liên lạc, dự báo, cảnh báo. 
Đặc biệt phải trang bị phương tiện, thiết bị liên lạc cho mỗi tàu thuyền khi ra khơi. Nâng cao chất lượng công tác dự báo, áp dụng đưa khoa học kỹ thuật vào dự báo và dự báo phải càng chi tiết, càng sớm càng tốt.
Thay đổi nhận thức
* Sau cơn bão đó, công tác phòng chống bão, theo ông, đã chủ động và tốt hơn?
- Sau thiệt hại quá lớn này, điều quan trọng nhất là nhận thức của người dân, chính quyền về bão đã thay đổi hẳn. Mọi người đã thích ứng và thích nghi với bão, rất chủ động ứng phó chứ không chủ quan, lơ là như trước cơn bão Linda.
Trong giao ban rút kinh nghiệm, tôi đã chỉ ra rằng bão Linda là bài học, chỉ ra cho chúng ta nhiều điều. Cần phải thay đổi tư duy về công tác phòng chống lụt bão, nhất là ở các tỉnh phía Nam. 
Phải nâng cao nhận thức về phòng tránh thiên tai, giáo dục kiến thức đến cộng đồng không chỉ cho người dân, mà cho cả cấp lãnh đạo. Cần xây dựng quy chế, quy trình mang tính pháp lý và quy định trách nhiệm cụ thể của từng cấp lãnh đạo.
Cũng kể từ bão Linda mà sau này mọi tàu thuyền ra khơi đã được trang bị và bắt buộc phải trang bị thiết bị Icom để liên lạc. 
Vì thế bây giờ không chỉ ngư dân trên biển được tiếp nhận thông tin từ trung ương, từ địa phương, mà ngay gia đình họ cũng nắm bắt được tàu thuyền của mình đang ở đâu, việc liên lạc vì thế có nhiều kênh.

Bia tưởng niệm nạn nhân bão Linda tại Cà Mau
* Thiên tai ngày càng khắc nghiệt, bất thường và diễn biến khó lường. Như vừa qua, bão lớn thiệt hại nhỏ, nhưng áp thấp nhiệt đới thì thiệt hại rất lớn. Là người mà hình ảnh luôn gắn liền với những đợt bão lũ, ông có gửi gắm gì?
- Đúng là thời tiết giờ càng cực đoan, bất thường, cường độ mạnh hơn, nên dù chủ động vẫn có những bất ngờ và có những thiệt hại. 
Trong phòng chống bão lũ cần phải thực hiện tốt phương châm "bốn tại chỗ", phải có lực lượng, phương tiện tại chỗ.
Mỗi vụ việc, người chỉ huy, người lãnh đạo địa phương cần có mặt ngay tại hiện trường, phải đến được với người dân để nắm bắt và chỉ đạo. 
Như bão Linda, tôi có mặt tại hiện trường thì tôi quyết luôn việc hỗ trợ xăng dầu để các tàu thuyền lớn, lành lặn ra ngay ngoài khơi tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn, vì thế mà kịp thời cứu cả ngàn người về.
Cũng từ bão Linda, thấy việc thông tin giữa các tàu bị hạn chế quá. Phải làm sao đưa được nhiều thông tin đến với ngư dân đang hoạt động trên biển. 
Nếu có đủ Icom thì chính quyền và gia đình ở đất liền đều có thể liên lạc, thông báo, nhắc nhở các tàu. Và điều này giờ đã thành quy định bắt buộc.
Những số liệu thống kê của cơn bão Linda.
Và những thiệt hại kinh hoàng....

Theo Tuổi Trẻ