KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, THỜI ĐẠI CỦA CHIẾN THẮNG 30 THÁNG 4

Năm nay, trong những ngày hướng đến kỷ niệm Chiến thắng lịch sử vĩ đại 30/4/1975, nhân dân ta đón mừng sự kiện này với nhiều niềm vui mới. Theo báo cáo của Chính phủ, kinh tế Việt Nam năm 2018 khởi sắc trên cả ba khu vực sản xuất, cung - cầu của nền kinh tế cùng song hành phát triển.

NHẬN DIỆN VÀ NGĂN NGỪA THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG LÒNG YÊU NƯỚC ĐỂ KÍCH ĐỘNG NGƯỜI DÂN XUỐNG ĐƯỜNG BIỂU TÌNH, GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Người yêu nước chân chính là người biết sử dụng pháp luật, đạo đức, truyền thống tốt đẹp để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, đồng thời phải biết tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Nhận diện được phương thức, thủ đoạn lợi dụng lòng yêu nước để kích động nhân dân làm việc xấu chính là nhằm đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp, đồng thời tránh được sự lợi dụng đó để gây ra rối loạn xã hội, phức tạp tình hình.

Thông cáo báo chí kỳ họp 32 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Từ ngày 03 đến 06/12/2018 tại Hà Nội, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã họp kỳ 32. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương chủ trì kỳ họp.

UBKTTW kết luận vụ AVG: Sai phạm của ông Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn là rất nghiêm trọng

UBKTTW vừa họp kỳ 26 kết luận vụ AVG có những vi phạm của Ban cán sự đảng Bộ TT-TT, ông Nguyễn Bắc Son, ông Trương Minh Tuấn, ông Phạm Đình Trọng, của Ban Thường vụ Đảng ủy Mobifone và các ông Lê Nam Trà, Cao Duy Hải là rất nghiêm trọng.

Bốn kỳ vọng thay đổi lớn về công tác cán bộ sau 4 ngày Hội nghị T.Ư 7

Sau 4 ngày làm việc, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng được dư luận đặc biệt quan tâm, trong đó có công tác cán bộ, bởi đây là vấn đề “nóng” trong tình hình hiện nay.

Chủ Nhật, 13 tháng 1, 2019

VỀ VỤ VƯỜN RAU LỘC HƯNG

Tôi thấy vài trí thức không còn trẻ mà tôi quen viết status bày tỏ cảm thông, thậm chí phẫn nộ với chính quyền về vụ việc “vườn rau Lộc Hưng” (VRLH). Vài bạn đọc gọi những người làm báo chúng tôi là… hèn khi để Tuyên giáo nắn gân, không thông tin một vụ việc mang ảnh hưởng lớn vào thời điểm ngày Tết cận kề.

VỀ VỤ VƯỜN RAU LỘC HƯNG

Ok, anh chị đòi hỏi thông tin chính thống về một vụ việc như vậy là chính đáng. Nhưng đòi hỏi theo kiểu buộc chúng tôi viết về một sự việc theo xúc cảm thiếu lý trí của các anh chị là không thể. Anh chị phải hiểu, “phụng sự bạn đọc” không có nghĩa là đáp ứng tất cả đòi hỏi không chính đáng của các anh chị.
Phát ngôn hay viết về bất kỳ vụ việc nào liên quan đến đất đai cũng phải dựa trên chứng cứ là hồ sơ tài liệu các bên. Vì vậy mà cho đến hôm kia, khi chưa đọc hồ sơ thu thập đủ của phóng viên viết bài, chính tôi cũng không dám đưa ra bất kỳ một bình luận nào về vụ việc khi được anh bạn dù rất thân thiết hỏi đến. Bởi tôi ý thức một điều, mọi phát ngôn cảm tính về bất kỳ một vấn đề nào (nhất là liên quan đến Chính trị - Xã hội) là cực kỳ xuẩn ngốc và bất nhẫn.
Osin hay Hoàn trắng hay bất kỳ một vị Luật sư tự xưng đấu tranh vì dâm chủ nào… cũng không phải là Thánh để bất cứ thứ gì họ “chém” trên mạng đều được anh chị like, share rào rào như cún sủa hùa giữa đêm vắng.
Nói vậy để anh chị nào có thế thật thì tỉnh giùm cái; và cũng nhờ những anh chị có bạn bè bị như thế giúp một câu khuyên bảo nhau để bớt “dại”.
Giờ nếu có quan tâm đến vụ VRLH, anh chị chịu khó tham khảo thông tin dưới đây (hơi dài vài tí vì ngắn thì không tải hết ngọn nguồn được):
Tuyên giáo, họ không cần cấm chúng tôi viết về cưỡng chế Lộc Hưng khi chính quyền đã “nắm đằng chuôi” với đống hồ sơ chi tiết qua từng mốc thời gian rồi.
Hiện tượng xây nhà không phép thuờng do 2 thứ sai cơ bản: sự không chấp hành pháp luật của người dân và sự nhân nhượng lâu ngày dẫn đến thiếu trách nhiệm của cán bộ địa bàn.
Người làm quản lý với quan điểm "đất công đòi lúc nào chả được"... là nguyên nhân để xảy ra những vụ điên đầu như Đồng Tâm (Mỹ Đức)… và giờ là VRLH.
Quan thì có quan thanh liêm và quan tham. Dân cũng có nhiều kiểu dân, kiểu dân gian thì luôn có muôn nghìn hạ sách kế để đối phó với chính quyền, nhất là trong lĩnh vực đất đai. Thông dụng nhất phải kể đến kế “cứt trâu hóa bùn” - tức là mỗi ngày một chút, biến đất Nhà nuớc thành đất của mình.
Có lần ngồi hóng chuyện với vài anh chị cán bộ UBND phụ trách đất đai, tôi được nghe kể hàng loạt vụ dân đen lấn chiếm đất nhanh như “tằm ăn lá”. Chỉ cần đánh hơi có thông báo thu hồi, đền bù giải toả thì chỉ sau một đêm cả khu đất trống biến thành vườn cây ăn quả hoặc nhà ở, thậm chí mọc lên các công trình mang màu sắc tôn giáo như tượng thờ, nhà nguyện, thánh giá... Lúc này, chính quyền khéo kiểu gì thì khi động vào cũng thành vấn đề phức tạp kiểu “đàn áp tôn giáo” hoặc “ức hiếp dân lành”.
Theo hồ sơ thì “Khu đất có diện tích 4,8ha tọa lạc tại Phường 6, quận Tân Bình thuộc một phần các thửa số 126-5, 128-5, 129-5 và 131-10-5, trước năm 1975 do Quốc gia Việt Nam (của Bảo Đại, không phải VNCH) và Hội đồng quản trị Công giáo địa phận Sài Gòn đứng bộ (đồng đứng tên). Theo đó, từ thời Pháp thuộc (trước Hiệp định Genevè năm 1954), toàn bộ khu đất bị Thực dân Pháp sử dụng làm bãi Ăng-ten.
Năm 1955, Linh mục Đinh Công Trình đại diện Giáo xứ Lộc Hưng có làm giấy MƯỢN ĐẤT và đã được QUÂN ĐỘI PHÁP tại Sài Gòn đồng ý cho giáo dân ngụ tại khu vực kế cận mượn phần đất trống giữa các cột Ăng-ten để trồng rau vào ban ngày (không được làm vào ban đêm). Riêng phần không lưu vẫn được sử dụng phục vụ cho ngành viễn thông chế độ cũ (VNCH) làm Đài phát tín.
Khi Pháp rút, chế độ Quốc gia Việt Nam (của Bảo Đại) bị lật đổ bởi Ngô Đình Diệm thì phần đất này ban đầu vẫn được giao cho Giáo xứ Lộc Hưng sử dụng theo “Giấy MƯỢN ĐẤT”. Năm 1963 khi tướng Nguyễn Khánh nắm quyền chế độ cũ đã cho thu hồi khu đất này và giao cho Nha Giám đốc Viễn thông chế độ cũ sử dụng, quản lý cho đến 30/4/1975.”
(Nguồn Văn bản số 6035/UBND-NCPC, ngày 26/10/2006 của UBND TP.Hồ Chí Minh do PCT Lê Văn Khoa ký gửi Thanh tra Chính phủ).

Vậy nguồn gốc đất trước 1975, anh chị đọc rõ rồi ha!

Từ bao giờ mà chữ "MƯỢN" đồng nghĩa với chữ “Sở Hữu” vậy chứ ?!?!
Sau giải phóng 1975, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 111/CP, ngày 14/4/1977 giao khu đất cho Trung tâm Viễn thông 3 tiếp quản và sử dụng làm Đài phát tín.
Ngày 12/10/1991, Ban Quản lý ruộng đất Thành phố ban hành Quyết định số 07/QĐ-ĐĐ công nhận quyền sử dụng đất và khu nhà điều hành cho Bưu điện thành phố Hồ Chí Minh.
Đến ngày 25/4/2008, UBND TP.HCM ban hành Quyết định số 1824/QĐ-UBND thu hồi khu đất giao cho UBND Q.Tân Bình để thực hiện dự án công trình công cộng và chung cư cao tầng phục vụ chương trình tái định cư của TP và quận.
Sau đó, trên cơ sở điều chỉnh quy hoạch và theo đề nghị của Q.Tân Bình, ngày 10/01/2013, Văn phòng UBND TPHCM ban hành Thông báo số 20/TB-VP về việc chấp thuận cho UBND Q.Tân Bình lập dự án đầu tư xây dựng cụm trường học công lập theo tiêu chuẩn quốc gia tại khu đất trên gồm các trường: Mầm non Sơn Ca diện tích 6.300m2, Tiểu học Hùng Vương 9.400m2 và Trung học cơ sở Mạc Đĩnh Chi 12.200m2.
Ngày 05/8/2013, UBND TP.HCM ban hành Quyết định số 4204/QĐ-UBND về điều chỉnh Quyết định số 1824/QĐ-UBND ngày 25/4/2008. Theo đó thu hồi khu đất có diện tích 49.320m2 giao cho UBND Q.Tân Bình để tổ chức thực hiện việc hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, chuẩn bị đầu tư dự án xây dựng trường học công lập theo tiêu chuẩn quốc gia.
Ngày 17/3/2014, UBND TP ban hành Quyết định số 1213/QĐ-UBND về phê duyệt điều chỉnh cục bộ đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị (quy hoạch phân khu) tỷ lệ 1/2000 khu dân cư P6, Q.Tân Bình. Đến ngày 15/5/2014, UBND Q.Tân Bình ban hành Quyết định số 423/QĐ-UBND về phê duyệt đồ án quy hoạch tổng mặt bằng tỷ lệ 1/500 khu trường học công lập theo tiêu chuẩn quốc gia tại khu “vườn rau Lộc Hưng” gồm 3 cấp học. Trong đó có 20 lớp mầm non, 30 lớp tiểu học và 45 lớp trung học cơ sở.
Ngày 11/6/2015, UBND TP có Công văn số 3200/UBND-ĐTMT về việc cho phép tiếp tục triển khai dự án đầu tư xây dựng khu trường học tại khu đất theo Kế hoạch sử dụng đất của dự án đã được HĐND TPHCM thông qua, tại Nghị quyết số 32/NQ-HĐND ngày 07/12/2017 và được UBND TP phê duyệt tại Quyết định số 394/QĐ-UBND ngày 29/01/2018.
Ngày 08/10/2018, HĐND TP cũng đã ban hành Nghị quyết số 21/NQ-HĐND, quyết định chủ trương đầu tư các dự án đầu tư công trên địa bàn, trong đó có 3 dự án trường học và 1 dự án đầu tư cơ sở hạ tầng tại khu đất trên.
Theo UBND Q.Tân Bình, trong thời gian triển khai các thủ tục pháp lý cần thiết để thực hiện dự án thì nhiều hộ dân canh tác trồng rau tại khu đất trên đã tiến hành xây dựng nhà không phép với nhiều mục đích khác nhau như để ở, cho thuê phòng trọ, kinh doanh quán ăn, cà phê... Tính đến nay đã có 110 trường hợp vi phạm, trong đó có 42 trường hợp phát sinh trong năm 2018.
Hành vi xây dựng không phép đã được UBND Q.Tân Bình chỉ đạo UBND P.6 phối hợp với Đội Thanh tra địa bàn thuộc Sở Xây dựng tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính, ban hành quyết định đình chỉ thi công, quyết định cưỡng chế tháo dỡ. Tuy nhiên, quá trình lực lượng chức năng thực hiện xử lý hành vi xây dựng không phép thì các cá nhân vi phạm đã có hành vi không hợp tác, cản trở và kể cả chống đối người thi hành công vụ.
Mặc dù các cơ quan chức năng của quận và phường đã có nhiều giải pháp như: ngăn chặn không cho chở vật liệu xây dựng, phát thông báo, phát loa tuyên truyền, vận động chấp hành... nhưng vẫn không hiệu quả. Tình trạng xây dựng không phép tại khu vực này vẫn diễn ra, nhất là trong khoảng thời gian từ cuối năm 2016 đến nay.
Không những thế, thời gian qua tại đây còn phát sinh nhiều hệ lụy như lừa đảo mua bán nhà, đất trái phép; tệ nạn xã hội, mất mỹ quan đô thị... gây mất an ninh trật tự.
Chính vì vậy, ngày 04/01/2019, UBND Q.Tân Bình tổ chức cưỡng chế với các trường hợp vi phạm để đảm bảo kỷ cương pháp luật.
Hiện tại dự án đang chờ thành phố chấp thuận chủ trương đầu tư, với vốn dự kiến hơn 1.000 tỉ, trong đó chi 420 tỉ cho tiền hỗ trợ, đền bù di dời; con số trước đây do Sở Xây Dựng Tp.HCM duyệt dự án là 800 tỉ.
Nhà nước sẽ hỗ trợ theo chính sách đất nông nghiệp đối với các hộ dân có quá trình canh tác trên đất do Nhà nước quản lý theo quy định, đơn giá đất để tính hỗ trợ do Ủy ban nhân dân thành phố phê duyệt.
Cũng nói thêm, từ khi có Quyết định hỗ trợ đền bù tiền canh tác lâu năm thì từ 2009 đến 2010, 89 hộ dân Công giáo (có trong danh sách đền bù hỗ trợ) đã sang tay thửa đất của họ cho nhiều cò đất để kiếm lời; hàng trăm biên bản phạt xây dựng trái phép đã được ban hành... Và cũng từ đó 89 hộ dân kia bắt đầu tự gọi bản thân là "Dân Oan Công Giáo” mượn danh Đức Chúa, Đức Mẹ tụ tập, kích động bà con giáo dân xuống đường biểu tình (những sự việc này người dân sống gần khu vực đó không ai không rõ).
Vận động, giải thích, tuyên truyền trước khi “cưỡng chế” đã được thực hiện không chỉ hơn 10 năm qua mà còn được làm rầm rộ, mạnh mẽ hơn từ 01 năm trước rồi mà 89 hộ dân với hàng trăm căn nhà ở đây vẫn không chịu tuân theo pháp luật thì bảo những người làm báo chúng tôi “phủ bênh phủ, huyện bênh huyện” và ém thông tin là thế quái nào?
Sự việc chỉ có thế nhưng dưới ngòi bút của các anh chị dâm chủ, nó đã bị bóp méo, biến tướng và mang màu sắc chính trị. Cho nên, khi anh chị like hay share những thông tin của họ một cách cảm tính, kém suy nghĩ tức là anh chị đã cổ xúy cho hành vi vi phạm pháp luật có tổ chức của một bộ phận người dân tại đây.
Trí thức có tầm, không ai kém cỏi trong nhận thức như thế!

Xu Nu Pham

Thứ Năm, 10 tháng 1, 2019

TUÂN THỦ LUẬT PHÁP VIỆT NAM - ĐIỀU CẦN PHẢI CÓ CỦA MẠNG XÃ HỘI FACEBOOK


Bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng đều có luật pháp. Mọi cá nhân, tổ chức ở trong quốc gia đó đều phải tuân thủ và bình đẳng trước pháp luật. 

TUÂN THỦ LUẬT PHÁP VIỆT NAM -  ĐIỀU CẦN PHẢI CÓ CỦA MẠNG XÃ HỘI FACEBOOK

Thời gian qua, các cơ quan chức năng Việt Nam đã phát hiện mạng xã hội Facebook vi phạm nghiêm trọng luật pháp Việt Nam trên các lĩnh vực: quản lý nội dung thông tin, quảng cáo trên mạng bất hợp pháp và trốn thuế.
Cụ thể, Facebook không đáp ứng các yêu cầu của cơ quan chức năng Việt Nam trong việc bóc gỡ các Fanpage có hoạt động vu khống, bôi nhọ cá nhân, tổ chức, kích động chống phá nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Facebook đang cho phép tồn tại rất nhiều tài khoản cá nhân, Fanpage, nhóm có nhiều bài đăng với nội dung vu khống, chống phá chính quyền, bôi nhọ, phỉ báng các cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước Việt Nam. Các tổ chức phản động đã lợi dụng mạng xã hội Facebook để đăng các nội dung nhằm bôi nhọ, nói xấu với mục đích chính trị. Những nội dung đó đã vi phạm nghiêm trọng các quy định của Luật An ninh mạng, Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ quy định về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng và Thông tư số 38/2016-BTTTT ngày 26/12/2016 của Bộ Thông tin Truyền thông Việt Nam quy định chi tiết về việc cung cấp thông tin công cộng qua biên giới.
Facebook đang cho phép quảng cáo các sản phẩm bất hợp pháp tại Việt Nam như tiền giả, hàng giả, vũ khí, pháo, mua bán dâm… công khai, không qua bất kỳ sự kiểm duyệt nào. Facebook đã trực tiếp hoặc gián tiếp tiếp tay cho các loại hình quảng cáo bất hợp pháp này. Các đối tượng có thể mua quảng cáo trên Facebook để đưa thông tin quảng cáo có mục đích, mang tính định hướng để hướng tới nói xấu, bôi nhọ, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cá nhân, cơ quan, tổ chức… Một thuật ngữ mới có tên “quảng cáo chính trị” xuất phát từ chính mạng xã hội này, đã xuất hiện nhiều quảng cáo với nội dung xuyên tạc, bôi nhọ lãnh đạo, định hướng dư luận trong các dịp quan trọng của Việt Nam như các kỳ Đại hội Đảng, Hội nghị Trung ương…
Facebook đã trốn thuế tại Việt Nam. Được biết, năm 2018, mức độ chi tiêu cho quảng cáo trực tuyến tại Việt Nam ước đạt 550 triệu USD, riêng quảng cáo chi tiêu cho Facebook chiếm 235 triệu USD; tuy nhiên Facebook đã không đóng thuế.
Đáng chú ý, hiện nay mạng xã hội này không có văn phòng đại diện tại Việt Nam, trong khi có đến 8 doanh nghiệp viễn thông cho Facebook kết nối trực tiếp và đặt khoảng 900 máy chủ tại Việt Nam. Các hợp đồng ký với doanh nghiệp viễn thông không có điều khoản cam kết tuân thủ các quy định pháp luật Việt Nam. Do vậy, đây chính là kẽ hở để mạng xã hội Facebook liên tục vi phạm luật pháp Việt Nam.
Thời gian tới, nếu mạng xã hội Facebook tiếp tục không tuân thủ pháp luật Việt Nam, khắc phục những vi phạm nêu trên, các cơ quan quản lý Việt Nam sẽ áp dụng các biện pháp kinh tế, kỹ thuật cần thiết nhằm đảm bảo môi trường không gian mạng lành mạnh, trong sạch.
                                                                  Tô Thảo Nhiên                 

Thứ Ba, 8 tháng 1, 2019

XỬ LÝ KỶ LUẬT MỘT SỐ CÁN BỘ CÓ SAI PHẠM KHÔNG HỀ LÀM GIẢM VỊ THẾ, UY TÍN CỦA BỘ CÔNG AN.

Đây là lời khẳng định của đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước tại buổi lễ khai mạc Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 74, đã được tổ chức trọng thể vào sáng ngày 03/01/2019 tại thủ đô Hà Nội.

XỬ LÝ KỶ LUẬT MỘT SỐ CÁN BỘ CÓ SAI PHẠM KHÔNG HỀ LÀM GIẢM VỊ THẾ, UY TÍN CỦA BỘ CÔNG AN.

Có mặt và phát biểu tại buổi lễ, đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đánh giá cao những kết quả tích cực mà lực lượng CAND đã đạt được trong năm qua, và ông cũng nhấn mạnh rằng: Công an cần nỗ lực để “không bị cám dỗ bởi những danh lợi tầm thường, không lợi dụng cương vị công tác của mình để làm phương hại đến lợi ích chung, lợi ích chính đáng của Đảng, Nhà nước, nhân dân”.
Một điều dễ nhận thấy rằng, 2018 là một năm chứng kiến nhiều biến động lớn đối với nhiều lĩnh vực, ban ngành nói chung, cũng như đối với ngành Công an nói riêng. Đặc biệt, trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, nhiều nguyên lãnh đạo, cán bộ ngành Công an đã bị phát hiện và vướng vào vòng lao lý. Nhiều nguyên tướng lĩnh cấp cao trong lực lượng CAND đã bị đưa ra khởi tố, xét xử như ông Phan Văn Vĩnh, Nguyễn Thanh Hóa, Phan Hữu Tuấn, Trần Việt Tân hay Bùi Văn Thành... Chính vì vậy, đã có không ít lo ngại rằng, với vị trí, chức năng và nhiệm vụ của mình trong cuộc chiến với các loại tội phạm, nhưng chính trong lực lượng Công an lại để xảy ra tình trạng lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi cá nhân, vi phạm pháp luật, điều này sẽ gây ra ảnh hưởng xấu đến uy tín, vị thế của lực lượng Công an khi thi hành nhiệm vụ của mình về sau. Tuy nhiên, trả lời về vấn đề này, ông Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Việc xử lý nghiêm một số cán bộ có sai phạm không hề làm giảm vị thế, uy tín của Công an như có người lo ngại, mà ngược lại, càng khẳng định quyết tâm chính trị mạnh mẽ, bản lĩnh, sức mạnh kỷ luật, kỷ cương, nâng cao uy tín của lực lượng Công an nhân dân”.
Điều này hoàn toàn là chính xác. Như lời Bác Hồ đã nói “tự phê bình và phê bình”, muốn đánh giá, nhận xét, xử lý các lực lượng, ban ngành khác một cách có hiệu quả, thì trước hết chính bản thân lực lượng Công an - với vai trò tiên phong cần phải tự nhìn nhận, tự kiểm điểm và làm trong sạch chính mình. Chỉ khi làm tốt được mặt công tác này thì mới có thể có tiền đề vững chắc để hướng đến đạt được hiệu quả cao trong cuộc chiến chống tham nhũng mà Đảng và Nhà nước ta đang triển khai rất quyết liệt trong thời gian qua.
Hơn nữa, ngoại trừ một số điểm tiêu cực, thì trong năm 2018 lực lượng CAND đã thực hiện các công tác đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, điển hình như việc tinh gọn tổ chức bộ máy, giảm cấp trung gian, tăng cường cơ sở; đảm bảo, giữ vững an ninh, sự ổn định chính trị, mặc dù phải đối mặt với sự chống phá mạnh mẽ, sử dụng nhiều thủ đoạn xảo quyệt của các thế lực thù địch; hay kết quả cao trong công tác điều tra, khám phá án “gần 45.000 vụ phạm pháp hình sự (đạt tỷ lệ 82,32%, cao hơn chỉ tiêu Quốc hội đề ra 12,32%, cao hơn 1,9% so với năm 2017); đã triệt phá gần 3.000 băng, nhóm tội phạm; công tác xây dựng pháp luật đạt nhiều kết quả tích cực với sự ủng hộ cao của các đại biểu và nhân dân, trong đó điển hình như ban hành Luật an ninh mạng với trọng trách làm sạch không gian mạng, đảm bảo an toàn cho người dùng…”
Vai trò lực lượng Công an rất to lớn trong giữ gìn ổn định chính trị trong nước như lời Bác: “Có lúc chiến tranh, có lúc hòa bình. Lúc chiến tranh thì quân đội đánh giặc, lúc hòa bình thì tập luyện. Còn Công an thì phải đánh địch thường xuyên, lúc chiến tranh có việc, lúc hòa bình lại càng nhiều việc”.
Có thể kết luận rằng, kiểm điểm, kỷ luật không phải là để hạ thấp, làm mất uy tín của người này, người kia, hay là sự soi mói của bộ này, ban kia, mà đó vừa là để đảm bảo sự nghiêm minh, công tâm, không có vùng cấm của pháp luật, đồng thời cũng là sự răn đe, lời cảnh tỉnh đối với những người khác để không xuất hiện những trường hợp tương tự./.

Chủ Nhật, 6 tháng 1, 2019

"Bắt mạch" sự phản kháng của các nhà "dân chủ mạng"

Sau hơn hai thập kỉ “du nhập” vào Việt Nam, mạng Internet đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của người dân. Với sự bùng nổ mạnh mẽ của mạng xã hội, sự ảnh hưởng của thế giới mạng vào đời sống thực tiễn ngày càng sâu sắc. Tuy nhiên, ở khía cạnh ngược lại, rất nhiều vấn đề tiêu cực cũng đã phát sinh trên thế giới mạng, đặc biệt là việc các đối tượng chống đối, thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng mạng xã hội để xuyên tạc, bôi nhọ, đả kích Đảng, Nhà nước và tuyên truyền các quan điểm, luận điệu xuyên tạc. 

"Bắt mạch" sự phản kháng của các nhà "dân chủ mạng"

Trong bối cảnh đó, Luật An ninh mạng đã được ra đời. Đây là bước đi vô cùng quan trọng để bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia nói chung và chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nói riêng. Sự ra đời của Luật An ninh mạng đáp ứng được như cầu, mong muốn của người dân nhưng ở phía bên kia “chiến tuyến”, nó lại đang là nỗi lo sợ của không ít người.

Ngay từ khi Quốc hội có kế hoạch xây dựng Luật An ninh mạng, các đối tượng cơ hội chính trị, những nhà “dân chủ” tự phong đã đả phá, xuyên tạc nội dung của Luật An ninh mạng với mục đích cuối cùng là ngăn chặn Luật này được thông qua và có hiệu lực trên thực tế. 

Đến nay, khi Luật An ninh mạng đã chính thức có hiệu lực, các đối tượng trên vẫn cố “thoi thóp” tung ra các thông tin sai lệch để tạo ra sự hoài nghi trong quần chúng nhân dân.

Lướt qua một số trang Facebook của các nhà “dân chủ mạng”, không khó để bắt gặp các bài viết đả phá, xuyên tạc nội dung của Luật An ninh mạng.

Luận điệu được những đối tượng này đưa ra là “Luật An ninh mạng tước đoạt quyền tự do riêng tư, tự do sử dụng internet, và tự do ngôn luận của nhân dân, nói đơn giản là “bịt miệng dân”, nhằm đàn áp dẫn đến triệt tiêu những tiếng nói phản biện. Luật ANM sẽ làm kìm hãm sự phát triển của đất nước, và duy trì, gia tăng áp bức, bất công”.

Thậm chí, có kẻ còn mạnh miệng xuyên tạc rằng “Luật An ninh mạng đưa chúng ta vào thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử, cũng như bắt đầu đi ngược lại với quy luật tự nhiên, ngược lại với tiến trình phát triển của xã hội loài người”. 

Khi những luận điệu sai lệch này được đưa ra và tiếp cận đến người dân, nếu ai không đủ bản lĩnh, không đủ hiểu biết sẽ rất dễ bị “dắt mũi” và tin vào các thông tin sai lệch tạo ra vô số hệ lụy tiêu cực.

Thẳng thắn mà nói, việc các nhà “dân chủ mạng” kịch liệt phản đối đối Luật An ninh mạng là một điều mà không quá khó đoán. Suy cho cùng, khi mà “cần câu cơm” của các nhà “dân chủ” tự phong này bị mất đi thì hiển nhiên họ sẽ la hét om sòm. 

Bởi nếu nhìn vào những cái tên “lão làng” trong nhóm “dân chủ”, những kẻ kiếm sống bằng nghề “dân chủ” như: Mẹ Nấm, Trần Thị Nga, Huỳnh Thục Vy, đối tượng nào cũng triệt để sử dụng mạng xã hội, từ facebook đến blog để đăng tải, chia sẻ những bài nói, bài viết có nội dung xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. 

Và hiển nhiên, không ai làm việc không công, đằng sau những bài viết sai trái như trên là những khoản vật chất không nhỏ của những cá nhân, tổ chức phản động được chuyển về cho các đối tượng.

Quay ngược vấn đề, nguồn gốc sâu xa của các nhà “dân chủ mạng” và “cuộc chiến” trên không gian mạng bắt nguồn tư chính chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thể lực thù địch. Bản chất của “diễn biến hoà bình” là làm cho chế độ ta bị lung lay, sụp đổ từ bên trong.

Thông qua các chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền… theo kiểu phương Tây, các đối tượng cơ hội chính trị, những kẻ thù địch, chống đối một mặt đả kích chế độ ta, một mặt cổ suý lối sống tư bản nhằm tạo ra sự phân hoá ngay trong lòng xã hội Việt Nam. Để đạt được mục đích này, các thế lực thù địch, chống đối sử dụng nhiều phương thức khác nhau. 

Trong đó, mạng xã hội nói riêng và thế giới mạng nói chung đã được triệt để sử dụng để đăng tải những bài nói, bài viết sai trái nhằm đánh thẳng vào nhận thức, tư tưởng của người dân. Tư tưởng kỳ thị chế độ, thù hằn lãnh đạo, không có niềm tin vào chế độ đã nhen nhóm phát sinh trong một số cá nhân suy thoái, biến chất và trong những người thiếu hiểu biết, bị lôi kéo. 

Những điều này một phần bắt nguồn từ việc các đối tượng thù địch, chống đối đẩy mạnh chống phá trên không gian mạng nhưng một phần nguyên nhân không nhỏ xuất phát từ bất cập và những khoảng trống về pháp lý.

Khi Luật An ninh mạng có hiệu lực trên thực tế, các hoạt động trên không gian mạng được thắt chặt hơn. Với những người dùng bình thường, việc này không ảnh hưởng nhiều vì Luật này sẽ góp phần tạo dựng một môi trường mạng trong sạch hơn. Và đặc biệt, Luật sẽ bảo vệ chặt chẽ hơn những quyền lợi của người dân trên mạng. 

Vậy nhưng ngược lại, những nhà “dân chủ” tự phong, những kẻ lợi dụng mạng xã hội để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật nói chung và chống phá Đảng, Nhà nước nói riêng sẽ lo lắng, tìm cách phản ứng, vì sợ mất không gian quậy phá, chống đối.

Sự ra đời của Luật An ninh mạng là bước đi cần thiết trong bối cảnh công nghệ số đang phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Đây là hành lang pháp lý quan trọng để bảo vệ an ninh quốc gia cũng như các quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi lợi dụng thế giới mạng để chống phá Đảng, Nhà nước, nhân dân.

Trần Anh Tú

Không thể xuyên tạc giá trị cao cả chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng

     Có những sự kiện lịch sử khi thời gian trôi về quá khứ càng xa thì ý nghĩa, giá trị của nó càng lớn lao. Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc (1975-1979) và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng của dân tộc Việt Nam là một trong những sự kiện như vậy.

     Việt Nam - Lào và Campuchia là ba nước nước láng giềng, trên cùng bán đảo Đông Dương có mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết cùng chống kẻ thù chung. Đặc biệt, 3 dân tộc đã kề vai sát cánh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược để giành độc lập, tự do cho dân tộc.

     Tuy nhiên, từ những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1970-1975) cho đến năm 1979, tập đoàn Pol Pot đã phản bội nhân dân Campuchia và phá hoại truyền thống đoàn kết, hữu nghị giữa Việt Nam-Campuchia. Trong nước, Pol Pot thực hiện chính sách diệt chủng; đồng thời chúng thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam của Việt Nam. Thực hiện quyền tự vệ chính đáng, Quân tình nguyện Việt Nam đã bất chấp mọi hy sinh, gian khổ, phối hợp với lực lượng vũ trang (LLVT) Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia mở cuộc tổng tiến công giải phóng thủ đô Phnom Penh (7-1-1979) và toàn bộ đất nước Campuchia (17-1-1979).

     Vừa qua, trong khi hai dân tộc Việt Nam-Campuchia vui mừng, phấn khởi kỷ niệm 40 năm Ngày chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam Việt Nam và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng, thì đây đó trên internet và mạng xã hội vẫn có những tiếng nói lạc lõng xuyên tạc cuộc chiến tranh này. Họ tán phát luận điệu cũ rích: “Cuộc tấn công của quân đội Việt Nam (giải phóng Campuchia) là cuộc chiến tranh xâm lược”; Việt Nam đã “lấn chiếm Campuchia cả trên đất liền và biển, đảo”... 

Không thể xuyên tạc giá trị cao cả chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng

     Vậy đâu là nguyên nhân cuộc chiến tranh này? Bản chất và ý nghĩa cao cả của cuộc phản công bảo vệ chủ quyền quốc gia; giải phóng dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, diệt vong là gì? 

     Nguyên nhân của cuộc chiến tranh

     Theo nhiều tài liệu và chứng cứ còn lại, trong 3 năm (từ tháng 4-1975 đến cuối năm 1978), chính quyền Pol Pot đã thực hiện chính sách chính trị, kinh tế, xã hội hoang dã: Hủy bỏ tất cả quyền con người, quyền công dân-từ quyền sống đến các quyền tự do tối thiểu. Để làm “trong sạch dân cư”, chúng đã thực hiện chính sách giết hàng triệu người một cách dã man (đập chết bằng cuốc, xẻng, mổ bụng, moi gan... ). Gần 3 triệu người Campuchia đã bị giết chỉ trong gần 3 năm. Chúng xóa bỏ mọi cơ sở xã hội của một nền văn minh (như xóa bỏ thành thị, xóa bỏ sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, xóa bỏ quan hệ hàng hóa-tiền tệ) đẩy cả dân tộc Campuchia vào thảm họa diệt vong, đồng thời xóa sổ cả nền văn hóa, văn minh của một dân tộc có bề dày hàng nghìn năm.

     Với Việt Nam, Pol Pot ra sức vu khống: “Việt Nam xâm lược, cướp đất, cướp đảo… của Campuchia”. Chúng kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, giết nhiều kiều bào Việt Nam; đòi hoạch định lại biên giới Việt Nam-Campuchia. Pol Pot tuyên bố Việt Nam là “kẻ thù truyền kiếp”, “kẻ thù số 1”, là “tai họa lớn nhất” của dân tộc Campuchia… Ngay sau khi Việt Nam hoàn toàn giải phóng, chúng tấn công đảo Phú Quốc (ngày 3-5-1975); tấn công đảo Thổ Chu (ngày 10-5-1975). Tại đây, chúng bắt và giết hơn 500 dân thường. Trên đất liền, chúng khiêu khích, tập kích vào bộ đội biên phòng, tự tiện di dời cột mốc biên giới ở các tỉnh: Tây Ninh, Kon Tum, Đắc Lắc…

     Cuộc chiến tranh này đã được chính quyền Pol Pot chuẩn bị bài bản với tham vọng có thể giành được chiến thắng. Chúng phát triển quân chủ lực từ 7 sư đoàn khi mới giải phóng lên 12 sư đoàn quân chính quy với đầy đủ thành phần, binh chủng. Cuối tháng 4-1977, Pol Pot điều động 5 sư đoàn và hàng trăm khẩu pháo, xe tăng áp sát biên giới Việt Nam-thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn vào lãnh thổ vùng biên giới Tây Nam của Việt Nam.

     Cuộc phản công tự vệ của quân và dân ta

    Không thể phủ nhận rằng, trong thời kỳ đầu của các cuộc tập kích, khiêu khích ở biên giới Tây Nam, chúng ta đã mất cảnh giác vì tin vào chính quyền Campuchia do Pol Pot-Ieng Sari cầm đầu. Việt Nam không nghĩ rằng một quốc gia láng giềng từng được quân dân Việt Nam giúp đỡ, hy sinh cả xương máu để họ có được độc lập dân tộc lại quay súng, giết hại nhân dân, giết hại đồng bào mình. Thế nhưng, khi bọn chúng đã lộ mặt là kẻ phản bội-thật sự mở cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam thì quân dân Việt Nam bằng quyền tự vệ chính đáng của mình đã giáng trả đích đáng.

     Đặc biệt, ngay sau khi Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia chính thức được thành lập (ngày 3-12-1978), đáp ứng lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia, từ ngày 23-12-1978, Quân tình nguyện Việt Nam cùng LLVT của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia mở cuộc tổng phản công-tiến công, lần lượt phá vỡ toàn bộ hệ thống phòng thủ của quân Pol Pot. Ngày 7-1-1979, Quân tình nguyện Việt Nam và LLVT của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia đã giải phóng Phnom Penh, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của tập đoàn phản động Pol Pot và chế độ diệt chủng ở Campuchia.

     Ngày nay, nhìn lại cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc, chúng ta rút ra nhiều ý nghĩa cao cả:

     Trước hết, bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ luôn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của quân dân ta. Trong bất cứ tình huống nào, quan hệ quốc tế nào, chúng ta cũng không được thiếu cảnh giác trong sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, giải thích sự kiện quân dân ta không giáng trả ngay bè lũ Pol Pot, nhiều đồng bào, cựu chiến binh ta nói rằng: Khi đó chúng ta nghĩ rằng không có chuyện quân đội Campuchia lại tấn công Việt Nam.

     Mặc dù tình hình quốc tế và khu vực đã có những chuyển biến khác với thời kỳ "Chiến tranh lạnh" (1945-1991), tuy nhiên Việt Nam và Biển Đông là một trong những vị trí địa chính trị quan trọng trong khu vực. Cuộc cạnh tranh giữa các nước lớn ở khu vực này có thể dùng các phương thức khác nhau để giành giật quan hệ quốc tế… Điều này có thể dẫn đến những xung đột giữa các nước nhỏ trong khu vực. Đây là một thực tế đã diễn ra trong lịch sử mà Việt Nam không thể không quan tâm.

     Thứ hai, các sự kiện diễn ra trong cuộc chiến tranh này đã hoàn toàn bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch trong và ngoài nước về cuộc chiến tranh, nhất là luận điệu “Việt Nam xâm lược, xâm lấn Campuchia”. Thực tế cho thấy, cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam là một cuộc chiến tranh bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc ta. Đồng thời cũng là cuộc chiến đấu bảo vệ sinh mạng-quyền con người của cả hai dân tộc Campuchia và Việt Nam; là cuộc chiến tranh chính nghĩa-cuộc chiến tranh tự vệ chính đáng, giáng trả kẻ thù xâm lược, ngoài ra không có mục tiêu nào khác.

     Về nguyên nhân quân đội Việt Nam không rút về nước ngay trong năm 1979, Thủ tướng Hun Sen kể rằng: “Sau chiến thắng ngày 7-1-1979, nếu như theo kế hoạch ban đầu, bộ đội Việt Nam sẽ rút quân khỏi Campuchia ngay trong năm 1979. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, Campuchia chưa đủ sức chống lại Pol Pot và cần thời gian để củng cố lực lượng cũng như khôi phục nền kinh tế của mình. Nếu Việt Nam rút quân và Pol Pot quay trở lại được thì sẽ càng nhiều người Campuchia bị giết”, “Chính phủ Việt Nam không muốn để quân ở lại. Phía chúng tôi đã yêu cầu họ như thế...”(1).

     Thứ ba, về quan hệ Việt Nam - Campuchia, cuộc chiến tranh bảo vệ chủ quyền của quân dân ta đã đồng thời giáng đòn quyết định đánh sập chế độ diệt chủng ở Campuchia, ngoài ra không có mục tiêu nào khác. Chiến thắng của quân dân ta cũng có thể nói là chiến thắng của tình đoàn kết hữu nghị truyền thống Việt Nam-Campuchia, khôi phục lại tình đoàn kết hữu nghị vốn có giữa hai Đảng và nhân dân hai nước. Thủ tướng Hun Sen từng kể rằng: Trước tình hình đó (nạn diệt chủng), ông đã quyết định chạy sang Việt Nam đề nghị giúp đỡ tổ chức phong trào kháng chiến giải phóng đất nước. Khi ấy, ông được biết thông tin một số người dân Campuchia cũng đã rời quê hương sang Việt Nam lánh nạn. Ông tin Việt Nam, vì đây là nước láng giềng đã từng đồng cam cộng khổ, kề vai sát cánh với Campuchia trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung giành độc lập. Trong chuyến thăm Việt Nam gần đây, ông nói: “Nếu không có sự giúp đỡ của Việt Nam thì Campuchia không có ngày nay”.

     Thủ tướng Hun Sen còn khẳng định: “Chúng ta có thể hỏi rằng trên thế giới này, có đất nước nào đã giúp nhân dân Campuchia, đặc biệt là giải phóng khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot và ngăn cản sự quay lại của chúng? Câu trả lời chính là nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhân dân Campuchia có niềm tin, chỉ có tiên, có Phật mới cứu giúp được những phận người khi gặp khó khăn khốn cùng. Đúng vào lúc người dân Campuchia sắp chết, chỉ còn biết chắp tay khẩn cầu tiên, Phật tới cứu thì Bộ đội tình nguyện Việt Nam xuất hiện. Bộ đội Việt Nam chính là đội quân nhà Phật”(2).

     Chế độ diệt chủng Pol Pot không chỉ là một thảm họa với dân tộc Campuchia mà còn là một nguy cơ lớn đối với dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, giúp nhân dân Campuchia giải phóng "cũng là mình tự giúp mình”. Với mọi kẻ thù xâm lược, cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ là một thông điệp đanh thép của nhân dân Việt Nam. Bất cứ kẻ thù nào, nếu có dã tâm xâm lược Việt Nam, chúng sẽ bị giáng trả với toàn bộ sức mạnh tinh thần, trí tuệ và vật chất.
CAO ĐỨC THÁI

CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC 1979: Sòng phẳng với lịch sử không phải kích động hận thù


Chiến tranh biên giới phía Bắc là một câu chuyện buồn trong lịch sử, một câu chuyện buồn trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Dẫu vậy, nó vẫn là lịch sử.

CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC 1979: Sòng phẳng với lịch sử không phải kích động hận thù

Và đã là lịch sử thì phải nhìn nhận nó với sự thật đầy đủ. Sẽ không thể không nhắc đến ngày 17.2.1979, ngày mà cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc đã nổ ra; ngày mà hàng ngàn con em chúng ta đã hy sinh để bảo vệ biên cương của Tổ quốc. Nhắc để dân ta nhớ, biết ơn và tôn vinh những chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh để bảo vệ biên cương tổ quốc, như chúng ta đã và sẽ vẫn tôn vinh bao nhiêu anh hùng liệt sĩ trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Không những dân ta cần hiểu, mà nhân dân Trung Quốc cũng như nhân dân các nước cũng phải hiểu đúng: đâu là sự thật, đâu là lẽ phải và coi đó là bài học. Không thể quên lãng nó.

Nhiều người dân Trung Quốc đã hiểu sai cơ bản về cuộc chiến tranh biên giới đó. Nhưng tính chính nghĩa của Việt Nam trong cuộc chiến đó là sự thật không thể chối cãi. Có thể nào nghĩ rằng Việt Nam vừa ra khỏi cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt kéo dài 30 năm, đang tập trung hàn gắn vết thương chiến tranh và đứng trước vô vàn khó khăn lại có thể khiêu khích Trung Quốc, một nước lớn, một nước XHCN đã ủng hộ và giúp đỡ mình trong cuộc chiến tranh cứu nước vừa qua? Thực tế là quân dân Việt Nam khi đó đã phải chống lại một cuộc chiến tranh biên giới to lớn để bảo vệ biên cương tổ quốc.

CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC 1979: Sòng phẳng với lịch sử không phải kích động hận thù

Theo tôi, không chỉ đưa vào sách giáo khoa những sự thật lịch sử về Hoàng Sa, Trường Sa mà ngay cả cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc cũng cần được nhắc đến đầy đủ. Con em chúng ta cần biết và có quyền biết lịch sử, biết những gì mà ông cha đã làm, để tự hào và tiếp nối truyền thống. Tôi muốn nhấn mạnh rằng: ta tôn trọng lịch sử, sòng phẳng với lịch sử không có nghĩa là chúng ta kích động hận thù. Chúng ta biết sự thật, để hiểu đâu là lẽ phải và để rút ra bài học cho các mối quan hệ quốc tế trong bối cảnh phức tạp ngày nay.

Tôi ủng hộ con đường ngoại giao khôn ngoan, mềm mỏng, tôn trọng các nguyên tắc quốc tế. Kinh nghiệm trong đấu tranh, né tránh hay im lặng đều không có lợi, vì như vậy chúng ta không làm rõ được sự thật, phải trái, đúng sai, có khi còn khuyến khích đối phương, khiến họ cho rằng ta yếu thế và ngày càng lấn tới. Tuy nhiên không bình tĩnh cân nhắc trong ứng xử cũng sẽ khiến cho tình hình thêm phức tạp, không có lợi cho sự nghiệp.

Vậy bài học rút ra từ quá khứ mất mát của chúng ta là gì đây? Việt Nam là một dân tộc hòa hiếu. Xưa đến nay, ta rất chú trọng xây dựng quan hệ láng giềng tốt với Trung Quốc dù trong lịch sử hai nước đã có bao lần xung đột. Trong tình hình hiện nay, chúng ta cần một môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước và cần những bạn bè tốt để hợp tác nên Việt Nam càng coi trọng quan hệ hữu nghị với Trung Quốc – một nước lớn đang có những bước phát triển thần kỳ.

Nhưng như bất cứ dân tộc nào, chủ quyền quốc gia đối với Việt Nam là thiêng liêng và chúng ta sẽ kiên quyết bảo vệ bằng mọi giá, đồng thời chúng ta chủ trương mọi tranh chấp lãnh thổ được giải quyết bằng phương pháp hòa bình, có sự tôn trọng lẫn nhau.
Trong đấu tranh, chúng ta đã làm đúng theo lời dạy của Bác Hồ: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, luôn giữ vững lập trường nguyên tắc độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, nhưng vẫn linh hoạt, mềm dẻo trong sách lược.

Tôi tin vào sức mạnh của chính nghĩa, của lẽ phải, tin vào sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân và tin ở sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới. Ta cần hành động theo tinh thần đó. Nhưng tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng sẽ khó để bảo vệ chủ quyền nếu đất nước không có nội lực, không có nền tảng vững chắc về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng với đoàn kết dân tộc mạnh mẽ. Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất mà chúng ta cần phấn đấu.

Thứ Sáu, 4 tháng 1, 2019

40 NĂM CHIẾN THẮNG CHIẾN TRANH BẢO VỆ BIÊN GIỚI TÂY NAM (07/01/1979 - 07/01/2019)


Sau 30/4/1975, nhân dân Việt Nam và Campuchia những tưởng được sống trong hòa bình, nhưng tập đoàn Pol Pot, Iêng Xa ry đã gây họa diệt chủng ở Campuchia và xâm lược biên giới Tây Nam Việt Nam.

40 NĂM CHIẾN THẮNG CHIẾN TRANH BẢO VỆ BIÊN GIỚI TÂY NAM (07/01/1979 - 07/01/2019)

Quân và dân ta đã thực hiện quyền tự vệ chính đáng, đập tan các hành động xâm lược; đồng thời đáp lời kêu gọi khẩn thiết của nhân dân Campuchia, quân tình nguyện Việt Nam đã cùng quân và dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng vào ngày 07/01/1979.
“10 ngày sau khi tiếp quản vào 30/4/1975, chúng tôi đã lại phải cầm súng đánh đuổi quân Pol Pot tràn lên định chiếm đảo Phú Quốc và Thổ Chu. Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội biên phòng - BĐBP) không được rời tay súng, kể cả khi đất nước đã thống nhất” - Thiếu tướng Trương Văn Thanh, nguyên Phó Tư lệnh BĐBP, nhớ lại.

Trận đầu Tuy Đức

Tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Campuchia có chiều dài 1.137 km, đi qua 10 tỉnh biên giới Tây Nam của Việt Nam. Thời kỳ sau giải phóng, một số đơn vị quân chủ lực và địa phương chuyển nhanh sang làm kinh tế. BĐBP vừa mới triển khai đã phải gánh vác nhiệm vụ quản lý biên giới - địa bàn, giữ trật tự an ninh và chiến đấu vũ trang bảo vệ từng tấc đất Tổ quốc.
Từ đầu tháng 5/1975, trên biên giới đoạn Hà Tiên - Tây Ninh, lính Pol Pot liên tiếp xâm phạm lãnh thổ ta gây ra những cuộc xung đột và tội ác. Cuối 1975 đầu 1976, lính Pol Pot tăng cường xâm lấn vùng tây sông Sa Thầy, nam đường 19 thuộc tỉnh Kon Tum. Đêm 03/01/1976, chúng tràn sang làng Xộp (xã Mo Ray, H.Sa Thầy, Kon Tum) đốt hết nhà cửa, cướp phá tài sản và bắt đi 130 dân làng. Đến tháng 6/1976, Pol Pot tăng cường lực lượng ra sát biên giới, xâm canh lấn đất ở các tỉnh Long An, Bình Phước, Tây Ninh… và thực hiện các hành động khiêu khích như bắn vào đội tuần tra, uy hiếp nhân dân đang đi lại làm ăn gần đường biên, tập kích, đốt phá, bắt cóc, gài mìn gây sát thương… Đặc biệt, đêm 25/02/1976, lính Pol Pot bất ngờ tập kích vào Đồn BP số 8 - Đắk Lắk (nay là Đồn BP cửa khẩu Bu Prăng nằm ở H.Tuy Đức, Đắk Nông), buộc bộ đội ta phải nổ súng đánh trả, đuổi sang bên kia biên giới. Trong tháng 3 và 4.1976, Pol Pot thường xuyên cho lực lượng bí mật sang trinh sát khu vực đóng quân của đồn 8, bắn súng khiêu khích. Ngày 25/6/1976, chúng tấn công chốt C3 làm 3 chiến sĩ bị thương…
“Khu vực quản lý của Đồn BP số 7 (nay là Đồn Tuy Đức, Đắk Nông) và Đồn 8 (nay là đồn Bu Prăng, Đắk Nông) được bọn Pol Pot chọn làm đột phá khẩu cho cuộc chiến tranh xâm lấn lãnh thổ Việt Nam. Đây là nơi có diễn biến tranh chấp và xung đột vũ trang sớm nhất toàn tuyến” - Thiếu tướng Trương Văn Thanh nói và kể: Ngày 05/01/1977, lính Pol Pot phục kích bắn M79 vào đội tuần tra của đồn làm 1 chiến sĩ hy sinh, 1 người khác bị thương nặng. Rạng sáng 14/01/1977, đồng loạt 2 tiểu đoàn bộ binh địch bao vây, tấn công 2 đồn nhưng vấp phải sự chống trả quyết liệt, phải rút về bên kia biên giới. Phía ta có 9 chiến sĩ hy sinh và 15 bị thương nặng, nhà cửa hư hại… Riêng đồn 7 (Tuy Đức) mất chốt phòng ngự và phải trưa hôm sau bộ đội mới phản kích lấy lại chốt…

Máu đổ dọc đường biên

Đêm 30/4/1977, các sư đoàn chủ lực Pol Pot đồng loạt tấn công các đồn, trạm BP và 13/13 xã biên giới của tỉnh An Giang. Tại chốt Mương Hội Đồng của Đồn BP Bắc Đai (Nhơn Hội, An Phú), 8 chiến sĩ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Ở trạm Tịnh Biên thuộc Đồn BP Tịnh Biên (Vĩnh Trung, Tịnh Biên) trên chốt lộ 2 đi Tà Keo, 10 cán bộ chiến sĩ quả cảm đánh lui nhiều đợt tấn công của địch và đều ngã xuống… Mãi tới ngày hôm sau, lực lượng địa phương và bộ đội chủ lực mới chi viện, đẩy địch ra khỏi biên giới.
Trong trận đầu tại An Giang, 26 BĐBP hy sinh, 75 người bị thương. Bọn Pol Pot cũng đã giết hại 228 người dân, làm bị thương 359 người, đốt cháy 444 nóc nhà. Ở xã Phú Hội (H.An Phú, An Giang) có 15 gia đình bị chúng giết cả nhà bằng những cách dã man, tàn ác nhất…
Ngày 18/9/1977, địch mở các đợt tấn công cấp sư đoàn vào hầu hết tuyến biên giới Đồng Tháp. Đêm 25.9.1977, chúng huy động 2 sư đoàn chủ lực, 2 sư đoàn dự bị, 8 tiểu đoàn địa phương với sự yểm trợ của pháo hạng nặng đồng loạt tấn công toàn diện tuyếnbiên giới Tây Ninh. Trong trận này, Đồn BP Xa Mát bị bao vây suốt 11 ngày. Bộ đội đã anh dũng chiến đấu, bảo vệ được hàng trăm hộ dân, diệt 114 địch. 10 cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh, bị thương…
Ngày 05/12/1977, lực lượng vũ trang ta đồng loạt phản công, đẩy địch về bên kia biên giới, nhưng Pol Pot lại tăng cường 12 sư đoàn mở các đợt tấn công lấn chiếm. Rạng sáng 17/3/1978, một trung đoàn lính Pol Pot luồn sâu, bất ngờ tấn công vào khu vực Bù Đốp (Bình Phước). Lính Pol Pot đánh vào thôn 6, xã Thiện Hưng, mũi khác vào ấp Xa Trạch, xã Hưng Phước (thời điểm trước khi Hưng Phước tách ra thành 2 xã Hưng Phước và Phước Thiện) và thảm sát dân thường hết sức dã man. Đi tới đâu, chúng đều chém giết, đốt phá, tàn sát không sót một ai, từ người già đến trẻ em. 247 người bị giết hại, 291 nóc nhà và khoảng 14 tấn lương thực bị thiêu rụi…

Người anh hùng Đồn Vĩnh Xương

Đại tá Phạm Văn Phong, Chính ủy BĐBP tỉnh An Giang, cứ mỗi khi nhớ lại cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam là nhắc đến đồng đội mình: Anh hùng liệt sĩ Hoàng Kim Long (SN 1959) ở xã Tây An, Tiền Hải, Thái Bình. Thông minh học giỏi nhưng 17 tuổi anh Long tình nguyện nhập ngũ và được bổ sung vào Đồn BP Vĩnh Xương (An Giang) đúng thời điểm cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam đang diễn ra ác liệt. Ngày 27/2/1978, lính Pol Pot ồ ạt đánh chiếm trạm kiểm soát của đồn nằm ở kinh Năm Xã, Hoàng Kim Long vác ĐKZ bắn liên tục 21 quả đạn, dập tắt 4 hỏa lực đại liên và 12 li 7, bắn chặn các cánh quân của địch, giữ vững vị trí tiền tiêu.
Ngày 14/4/1978, cả lữ đoàn Pol Pot đánh vào các vị trí của trạm và Đồn BP Vĩnh Xương ở khu vực chùa Thầy Bảy. Trong trận này, địch dùng cối 120, ĐKZ, pháo 105, 130 li đánh suốt 3 ngày đêm và vây 3 mặt khiến bộ đội bắn gần hết đạn. Đến ngày 18/4/1978, lính Pol Pot bố trí hỏa lực ở cánh đồng bắn vào chốt.
Phát hiện chỗ yếu của địch là để lộ mục tiêu trên đồng trống, Hoàng Kim Long đã dùng ĐKZ liên tục cơ động diệt 4 hỏa điểm của địch, trong đó có 2 đại liên, 2 khẩu 12 li 7. Khi bắn tới quả đạn thứ 17 tiêu diệt thêm 2 khẩu ĐKZ và đang lắp quả đạn thứ 18 thì anh Long trúng đạn, hy sinh ở tuổi 19. “Khi trận chiến đấu kết thúc, toàn đơn vị đã lao tới ôm lấy anh và khóc. Nếu không có Long, chúng tôi thương vong rất nhiều”, đại tá Phong nhớ lại và kể: “Tự nguyện làm xạ thủ ĐKZ 82, anh Long mày mò nghiên cứu, tìm cách bắn ĐKZ không chân (ứng dụng) ở mọi địa hình, mọi điều kiện.


Khẩu ĐKZ 82 do anh cải tiến bắn rất chính xác, đỡ tốn đạn mà hiệu suất diệt địch cao. Vừa có kỹ thuật giỏi, vừa có lòng dũng cảm cộng với lối đánh táo bạo, linh hoạt, anh đã làm kẻ thù nhiều phen khiếp sợ. Từ tháng 7/1977 - 4/1978, anh Long chiến đấu 35 trận, diệt 9 cụm hỏa lực và 50 tên địch”.

Thứ Tư, 2 tháng 1, 2019

LUẬT AN NINH MẠNG TRƯỚC NGUY CƠ DÂN TÚY

Thế giới đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vô cùng sôi động, lắm cơ hội nhưng cũng nhiều thách thức, Việt Nam cũng không thể nằm ngoài xu thế đó. Cuộc chiến bảo vệ chủ quyền trên không gian mạng vì thế cũng đầy cam go, khốc liệt và cứ đều đặn mỗi giây có một cuộc tấn công vào cơ sở dữ liệu, không trừ bất kỳ ngày nào kể cả chủ nhật hay lễ tết. Cuộc chiến bảo vệ an ninh, an toàn trên mạng thực sự là cuộc chiến mang ý nghĩa quyết định, sống còn.

LUẬT AN NINH MẠNG TRƯỚC NGUY CƠ DÂN TÚY

Thực tế, an ninh mạng về bản chất là một cuộc chiến chống lại tin tặc xâm hại tài sản số và xâm lăng lãnh thổ không gian mạng. Đây là cuộc chiến rất rõ ràng về chiến tuyến. Tin tặc là cá nhân hoặc tổ chức tội phạm có mục tiêu cụ thể, có kỹ thuật. Tin tặc sẽ thâm nhập vào hệ thống server và router (thiết bị định tuyến), cài cắm các phần mềm để ăn cắp thông tin và khi cần sẽ chiếm quyền kiểm soát. Hạ tầng viễn thông quốc gia có thể xem là lãnh thổ vật lý của không gian mạng. Xâm chiếm được hạ tầng viễn thông tương đương một cuộc xâm lược địa lý. Ở mức độ nhỏ lẻ, tin tặc sẽ ăn cắp thông tin cá nhân hoặc thông tin kinh doanh của doanh nghiệp, đánh sập vài trang web. Mức độ cao hơn sẽ là ăn cắp bí quyết công nghệ, bí mật an ninh quốc phòng, đánh phá làm tê liệt hệ thống thông tin quốc gia.
Thế nhưng, khi Luật An ninh mạng được đưa ra, nhiều người, nhất là các cá nhân, tổ chức có tư tưởng, đường hướng đi ngược lại lợi ích quốc gia dân tộc, thì quyết liệt phản đối. Nhiều lý do, song tựu trung, những người phản đối đều e ngại quyền tự do cá nhân, tự do thông tin, tự do bày tỏ chính kiến trên không gian mạng; cụ thể hơn, ngoại vi hẹp hơn là quyền cá nhân của người dùng mạng xã hội sẽ bị xâm phạm và bóp nghẹt. Hình tượng một chút, đa số đều cho rằng Luật An ninh mạng đang “khâu miệng” mạng xã hội; Nhà nước đang thiết lập một chế độ “cảnh sát trị” trên không gian mạng. Cho đến ngày 01/01/2019, ngày đầu tiên Luật An ninh mạng có hiệu lực, đa số cư dân mạng vẫn giữ nguyên ý nghĩ này. Không chừng, vì một chút sơ sót lỡ lời, bất kỳ cư dân mạng nào cũng có khả năng trở thành “kẻ phạm luật”, có nguy cơ đối diện với sự trừng phạt của luật pháp!
Tôi cho rằng lo lắng như thế là bi quan một cách thái quá. Nếu không có ý định phạm tội, sử dụng mạng để xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân hay tổ chức khác thì Luật An ninh mạng không thể là con ngáo ộp hay Tề Thiên Đại Thánh có thể đe dọa được người sử dụng mạng. Trong 6 nhóm hành vi bị nghiêm cấm trong Điều 8 của Luật An ninh mạng không có điều nào cấm cản hay định tội người dùng mạng đưa ra chính kiến. Có một nhận định rất hay: “Nếu bạn không định làm hại người khác, không chống lại luật pháp thì trên trang cá nhân, bạn có quyền nói, đăng bất cứ điều gì bạn muốn, kể cả khi điều đó trái ngược ý kiến với người khác hay bị coi là phản cảm”. Với Luật An ninh mạng vừa có hiệu lực, tôi tin rằng giá trị của nhận định này vẫn không thay đổi.
Một ví dụ đơn giản, bạn có thể chê một anh ca sỹ đạt giải quán quân Sao Mai Điểm Hẹn là hát dở tệ, lạc tông bò rống kiểu như “Bắc có Lệ Rơi - Nam có Tùng Sơn” theo cảm nhận và suy nghĩ của bạn nhưng bạn không thể vu cáo cho anh ấy đã hối lộ, đút lót Ban Giám khảo để mua giải, khi bạn chưa có bằng chứng rõ ràng và thuyết phục. Nếu chỉ đơn giản như thế thì có thêm Luật An ninh mạng, trước hết đã gây hoang mang lo lắng cho rất đông các thành phần xã hội để làm gì, khi mà các hành vi vi phạm pháp luật đã có thừa đủ các biện pháp chế tài luật pháp trong Bộ luật Hình sự? Và thực tế không chỉ Việt Nam, rất nhiều quốc gia khác, kể cả quốc gia “dân chủ” như Hoa Kỳ cũng đã thực thi Luật An ninh mạng, phù hợp với hiến pháp, luật pháp của họ.
Một điều kỳ quặc, những người thích lên mạng chửi bới, thóa mạ người khác vô căn cứ nhất lại là những người phản đối Luật An ninh mạng nhiều nhất. Và toàn phản đối ở những khía cạnh không tồn tại hoặc tồn tại nhưng người phản đối không chắc đã hiểu rõ. Thực tế, Luật An ninh mạng hướng tới những mục đích lớn hơn nhiều về an ninh, an toàn cho quốc gia, xã hội về nhiều mặt, trong đó đặc biệt là mặt chính trị. Nó không rảnh và cũng chẳng buồn quan tâm đến việc “khâu miệng” vài ba phát biểu lăng nhăng của dân chơi mạng xã hội vốn bốc đồng, thiếu chính kiến và không có mấy tác động đối với xã hội, cho dù là tác động phá hoại. Ở Việt Nam, nếu cứ có hành vi, biểu hiện dạng này là bắt thì bắt làm sao xuể?
Nhìn riêng ở góc độ xã hội, ngày nay cả thế giới đang phải đối mặt với nguy cơ lây lan của chủ nghĩa dân túy, cho dù đó là nước Anh với truyền thống chính trị bảo thủ, nước Mỹ tự nhận là cởi mở và dân chủ hay nước Pháp của nghệ thuật và thi ca. Những thông tin không được kiểm chứng, tin giả, những nguy cơ không có thật… dễ dàng bị thổi phồng và lây lan nhanh hơn cả tốc độ ánh sáng, loang rộng và có thể thể gây xáo trộn xã hội, thậm chí có thể tạo ra sự hỗn loạn tàn phá.
Các cuộc Cách mạng màu ở Bắc Phi, phong trào Brexit tách nước Anh ra khỏi Châu Âu, gần hơn là phong trào áo khoác vàng tàn phá thủ đô nước Pháp đều khởi nguồn từ màu sắc dân túy, cộng với tinh thần dân tộc cực đoan gây nên. Sau tất cả, nhiều người trong cuộc, cả những người đã từng tham gia, đều nhìn thấy vô số điều đáng tiếc và phần lớn đều ao ước giá điều đó đừng xảy ra! Khác với các cuộc Cách mạng cổ điển, các phong trào vừa nhắc tới đều khó có thể chỉ ra bắt nguồn từ đâu, hầu như không có hạt nhân lãnh đạo, không có cương lĩnh và mục đích đấu tranh rõ ràng, không hướng tới sự thay đổi tốt đẹp cho xã hội. Nó chỉ bắt đầu như một phản ứng do bất mãn xã hội, chủ yếu là từ điều kiện sống khó khăn, chật vật của người lao động nghèo. Nhưng nó lại bùng phát và lây lan rất nhanh. Tất cả đều qua mạng internet không được kiểm soát đủ chặt. Chỉ một thông tin giả, một nguy cơ bị thổi phồng, một cuộc bạo loạn cũng có thể bùng lên, dai dẳng. Và khi đó, thông tin hỗn loạn tiếp tục chồng lớp, hướng những người tham gia vào các hành vi vô chính phủ, hư vô chủ nghĩa, thiên về đập phá, mang khuynh hướng cực hữu.
Các cuộc bạo loạn xã hội gần đây đang sản sinh ra một khuynh hướng chính trị mới: bạo động thiên tả khuynh hữu. Rõ nét và dễ thấy nhất là phong trào Gillet vàng ở Pháp vừa qua. Khởi đầu, nó mang tính chất biểu tình sự bất bình của quần chúng lao động lớp dưới trong xã hội (nhất là trong cộng đồng người lao động nhập cư). Phong trào dấy lên từ việc phản đối chính phủ tăng giá nhiên liệu. Người lao động xuống đường với mong muốn hòa bình: đòi Chính phủ quan tâm hơn đến các vấn đề lao động, tiền lương, giá xăng dầu hợp lý… nhằm bảo đảm tốt hơn điều kiện sống khó khăn của họ. Đó là màu sắc thiên tả.
Nhưng khác với các cuộc đấu tranh “công đoàn” trước đây, người biểu tình đã từ chối đưa yêu sách cụ thể, từ chối - hay nói cách khác là không có - người đại diện, để đưa ra yêu sách, yêu cầu. Gọi là đấu tranh nhưng đám đông cũng không có mục đích rõ ràng, chỉ ngày càng nhiều hơn những hành vi tập thể thiên về đập phá, gây rối và không ngần ngại tạo ra những xung đột, xô xát với cơ quan chức năng giữ gìn an ninh trật tự. Những cuộc tụ tập lực lượng đều được loan truyền theo cấp lũy thừa trên mạng xã hội nên không thể phát hiện và ngăn chặn. Và cuối cùng là tình trạng mất kiểm soát, xô xát và đổ máu, tàn phá cả cơ sở vật chất lẫn sự bình an tinh thần cho xã hội. Hơn thế nữa, nó lan rất nhanh sang các địa phương khác, các quốc gia khác.
Ở Việt Nam, phải thừa nhận rằng, với một số yếu kém trong quản lý xã hội, mầm mống dân túy đã hiện hữu. Nhân danh dân chủ, nhân quyền, đã có không ít cá nhân, nhóm… cả trong và ngoài nước cố ý tạo ra sự kích động dân túy để tập hợp lực lượng mà mục đích cao nhất là tiến tới loại bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và nhổ ngọn cờ XHCN. Mạng xã hội, internet chính là “chiến trường”, là “mặt trận” mà các thế lực này nhắm đến để hoành hành. Do đó sự ra đời của Luật An ninh mạng được xem như phương tiện và công cụ cần thiết để bảo vệ an ninh trật tự xã hội, bảo vệ đất nước, bảo vệ đời sống bình an của người dân và xã hội, cũng là bảo vệ sự sống còn của Đảng và thể chế.
Sự phản ứng cực đoan của một bộ phận người dân, người dùng mạng xã hội đối với Luật An ninh mạng cũng chứng tỏ yếu tố dân túy đã ăn sâu, bén rễ trong đời sống ý thức ở thời điểm hiện tại. Và như nhận xét của Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng: “chính sự chậm trễ của chúng ta (báo chí chính thống) đã “trao tặng” lợi thế cho mạng xã hội trong thông tin”. Sự thận trọng, sợ trách nhiệm, thiếu quyết đoán đã khiến truyền thông chính thống gần như luôn chậm chân hơn mạng xã hội. Và những nguy cơ về sự hỗn loạn từ sai lệch, méo mó thông tin vẫn còn treo lơ lửng. Đó chính mới là mối quan tâm điều chỉnh thật sự của Luật An ninh mạng.
Dân túy cũng chỉ là một khía cạnh, ngoài ra còn rất nhiều mặt quan trọng chứa đầy nguy cơ cần được bảo vệ khác mà Luật An ninh mạng nhắm đến. Còn lại, dăm ba tiếng chửi đổng rỗi hơi, một vài nhận định hời hợt vô căn cứ mà cũng tự cho là đối tượng để bị Luật An ninh mạng “khâu mồm” hay thủ tiêu tự do ngôn luận thì e rằng, đó chỉ là cái nhìn tự tin giai đoạn cuối, giời ạ!

Củ Chuối

Thứ Hai, 31 tháng 12, 2018

LUẬT AN NINH MẠNG CHÍNH THỨC CÓ HIỆU LỰC, NỖI LO SỢ CỦA ĐÁM DÂN CHỦ.

Hôm nay 01/01/2019, Luật An ninh mạng sẽ bắt đầu có hiệu lực điều chỉnh hoạt động của mọi tổ chức, cá nhân trên không gian mạng. Trước sự kiện này, các đối tượng “dân chủ” vẫn tiếp tục “cố đấm ăn xôi” xuyên tạc về việc luật này được thực thi trong thực tiễn đời sống. Điều này cũng rất dễ hiểu, bởi số này đang lo sợ những hoạt động xuyên tạc sự thật, tung tin bịa đặt hay kích động trên mạng lâu nay sẽ bị xử lý theo quy định của Luật An ninh mạng và các văn bản hướng dẫn thi hành.

LUẬT AN NINH MẠNG CHÍNH THỨC CÓ HIỆU LỰC, NỖI LO SỢ CỦA ĐÁM DÂN CHỦ.

Sự cần thiết và ý nghĩa của Luật An ninh mạng đã bị đám “dân chủ” xuyên tạc với nhiều luận điệu như: Luật An ninh mạng tước đoạt quyền tự do riêng tư, tự do sử dụng internet và tự do ngôn luận hay đây là đạo luật sao chép của Trung Quốc, rồi Luật An ninh mạng sẽ kìm hãm sự phát triển của đất nước… Các luận điệu này là hoàn toàn sai sự thật, hết sức trắng trợn và không có căn cứ, cơ sở.
Trong luật An ninh mạng hoàn toàn không có nội dung nào cấm đoán quyền tự do ngôn luận, tự do sử dụng Internet của các tổ chức,cá nhân mà chỉ điều chỉnh để các hoạt động diễn ra trên không gian mạng tuân thủ đúng pháp luật, không xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức cá nhân, xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Điều này là hết sức cần thiết trong bối cảnh các nguy cơ xảy ra từ không gian mạng ngày càng tăng.
Ở nhiều quốc gia phát triển hàng đầu như Mỹ, Nga hay các nước Tây Âu cũng đều có luật liên quan đến an ninh mạng. Điều này cho thấy việc Việt Nam ban hành và thực thi Luật An ninh mạng là phù hợp với xu thế, thực tiễn đang diễn ra trên thế giới. Lạ thay, các luật liên quan đến an ninh mạng của các nước trên thế giới lại không bị các đối tượng “dân chủ” xem là ngăn cản quyền tự do ngôn luận, tự do internet... Qua đó để thấy rằng, các đối tượng “dân chủ” này đang lo ngại về những chế tài xử lý đối với hoạt động xuyên tạc, tung tin bịa đặt, vu khống mà chúng vẫn thực hiện lâu nay trên không gian mạng.

Mời các bạn nghiên cứu toàn văn Luật An ninh mạng tại đây.