KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, THỜI ĐẠI CỦA CHIẾN THẮNG 30 THÁNG 4

Năm nay, trong những ngày hướng đến kỷ niệm Chiến thắng lịch sử vĩ đại 30/4/1975, nhân dân ta đón mừng sự kiện này với nhiều niềm vui mới. Theo báo cáo của Chính phủ, kinh tế Việt Nam năm 2018 khởi sắc trên cả ba khu vực sản xuất, cung - cầu của nền kinh tế cùng song hành phát triển.

NHẬN DIỆN VÀ NGĂN NGỪA THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG LÒNG YÊU NƯỚC ĐỂ KÍCH ĐỘNG NGƯỜI DÂN XUỐNG ĐƯỜNG BIỂU TÌNH, GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Người yêu nước chân chính là người biết sử dụng pháp luật, đạo đức, truyền thống tốt đẹp để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, đồng thời phải biết tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Nhận diện được phương thức, thủ đoạn lợi dụng lòng yêu nước để kích động nhân dân làm việc xấu chính là nhằm đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp, đồng thời tránh được sự lợi dụng đó để gây ra rối loạn xã hội, phức tạp tình hình.

Thông cáo báo chí kỳ họp 32 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Từ ngày 03 đến 06/12/2018 tại Hà Nội, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã họp kỳ 32. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương chủ trì kỳ họp.

UBKTTW kết luận vụ AVG: Sai phạm của ông Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn là rất nghiêm trọng

UBKTTW vừa họp kỳ 26 kết luận vụ AVG có những vi phạm của Ban cán sự đảng Bộ TT-TT, ông Nguyễn Bắc Son, ông Trương Minh Tuấn, ông Phạm Đình Trọng, của Ban Thường vụ Đảng ủy Mobifone và các ông Lê Nam Trà, Cao Duy Hải là rất nghiêm trọng.

Bốn kỳ vọng thay đổi lớn về công tác cán bộ sau 4 ngày Hội nghị T.Ư 7

Sau 4 ngày làm việc, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng được dư luận đặc biệt quan tâm, trong đó có công tác cán bộ, bởi đây là vấn đề “nóng” trong tình hình hiện nay.

Thứ Năm, 16 tháng 5, 2019

DI CHÚC CỦA BÁC HỒ LÀ TÀI SẢN VÔ GIÁ CỦA DÂN TỘC

Cách đây gần 50 năm, ngày 02/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi vào cõi vĩnh hằng, để lại nỗi tiếc thương vô hạn đối với đồng bào, chiến sỹ cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế. Trước lúc ra đi, Bác đã để lại di chúc thiêng liêng, là tài sản vô giá mà kết tinh trong đó là những điều cốt lõi về tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, để cho mỗi cán bộ đảng viên và nhân dân các thế hệ sau học tập và làm theo, nhằm xây dựng một đất nước Việt Nam ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh như mong muốn của Người.

DI CHÚC CỦA BÁC HỒ LÀ TÀI SẢN VÔ GIÁ CỦA DÂN TỘC

Di chúc đã để lại những điều căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền và sự lãnh đạo, cầm quyền của đảng; về chăm lo đối với con người và thế hệ trẻ; về quản lý xã hội, chính sách xã hội, an sinh xã hội sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta giành thắng lợi. Di chúc là sự tổng kết lý luận và thực tiễn về sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và nhân dân Việt Nam, là lý luận về đổi mới và tương lai phát triển của đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh được phản ánh trong di chúc, trước hết thể hiện quyết tâm chiến lược của Đảng, nhân dân, các lực lượng vũ trang của ta trong việc đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, khẳng định niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi cuối cùng là giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước, nam bắc sum họp một nhà. Người đặt niềm tin vào sự tất thắng đó: “Cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”. Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh trong di chúc có tầm chiến lược, là những chỉ dẫn quan trọng cho Đảng trong việc hoạch định đường lối, phương hướng, xác định nhiệm vụ, kế hoạch, chính sách, chương trình hành động cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đưa đất nước phát triển bền vững.
Đạo đức Hồ Chí Minh là điểm nổi bật cả trong tư tưởng và phong cách Hồ Chí Minh. Đạo đức mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trong di chúc là đạo đức cách mạng với hệ chuẩn mực giá trị cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Đó cũng là đạo đức hành động, mà điểm đặc biệt nhấn mạnh là đạo đức và sự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên trong điều kiện đảng cầm quyền. Đó là đạo đức trong quan hệ giữa đảng với nhân dân, giữa nhà nước với nhân dân, sự quan tâm chăm lo của đảng đối với giáo dục, rèn luyện đạo đức trong các tầng lớp nhân dân, nhất là đối với thế hệ trẻ tương lai của đất nước. Người căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Điều đầu tiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm, đó là căn dặn Đảng ta phải chăm lo củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, thường xuyên đổi mới và chỉnh đốn Đảng để có đủ sức mạnh và uy tín của người cầm lái, dẫn đường cho quần chúng hướng theo. Người khẳng định: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của đảng và của dân ta”. Người nêu rõ: “Các đồng chí từ trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Theo Người, muốn có sự đoàn kết chân thành và thực sự lâu dài thì phải “thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò cầm quyền và trọng trách lịch sử của đảng, tính tiên phong gương mẫu của cán bộ đảng viên trước đảng và trước nhân dân. Người căn dặn: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh giành cho thế hệ trẻ của đất nước tình yêu thương, sự quan tâm và niềm tin sâu sắc. Người căn dặn Đảng ta phải quan tâm chăm lo đào tạo, bồi dưỡng thế hệ kế tục sự nghiệp cách mạng cho đời sau. Người nêu rõ: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Căn dặn Đảng và Chính phủ phải quan tâm tạo mọi điều kiện giúp đỡ chị em phụ nữ để họ tiến bộ và trưởng thành, đồng thời bản thân chị em phụ nữ cũng phải tích cực phấn đấu vươn lên đáp ứng với trách nhiệm của mình.
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất trăn trở, lo nghĩ nhiều về đoàn kết quốc tế, nhất là trước sự bất đồng giữa các Đảng Cộng sản anh em. Người coi đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa và các đảng anh em là điều kiện quan trọng đảm bảo cho phong trào cộng sản và công nhân đến toàn thắng.
Có thể nhận thấy rằng, di chúc của Bác thực sự là mẫu mực tuyệt vời về sự ứng xử, tinh tế và cao thượng của một vị lãnh tụ cách mạng thiên tài, người con ưu tú của dân tộc, sự khoáng đạt, cởi mở, hài hòa, nhân ái, vị tha, khoan dung, độ lượng và tình nghĩa, thủy chung sâu sắc. Đó là sự hoàn chỉnh chân - thiện - mỹ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân sinh động và cảm động, có sức cảm hóa lay động muôn triệu trái tim con người Việt Nam và nhân loại trên thế giới; phản ánh sâu sắc cách sống, sinh hoạt hết sức bình dị nhưng vô cùng cao quý, trọn đời vì nước, vì dân. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được đúc kết thật sâu sắc trong di chúc của Bác, những lời căn dặn của Bác trước lúc đi xa dành cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta vô cùng sâu sắc và quý báu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam trước mắt và lâu dài. Do vậy sẽ trường tồn mãi mãi theo thời gian để mỗi cán bộ đảng viên và nhân dân Việt Nam học tập và làm theo./.     
Thảo Nhiên

Thứ Tư, 15 tháng 5, 2019

BAN BÍ THƯ QUYẾT ĐỊNH THI HÀNH KỶ LUẬT ÔNG NGUYỄN BÁ CẢNH

Ngày 14/5, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Ban Bí thư họp xem xét, thi hành kỷ luật ông Nguyễn Bá Cảnh, Thành ủy viên, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Dân vận Thành ủy Đà Nẵng.

BAN BÍ THƯ QUYẾT ĐỊNH THI HÀNH KỶ LUẬT ÔNG NGUYỄN BÁ CẢNH

Sau khi xem xét đề nghị của Ủy ban Kiểm tra Trung ương tại Tờ trình số 193-TTr/UBKTTW, ngày 06-5-2019, Ban Bí thư nhận thấy:
Trong thời gian giữ các cương vị Thành ủy viên, Bí thư Thành đoàn Đà Nẵng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Dân vận Thành ủy Đà Nẵng, ông Nguyễn Bá Cảnh đã sống chung với người khác như vợ chồng và có con riêng khi đang có vợ trong thời gian hôn nhân hợp pháp, vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống; vi phạm Luật Hôn nhân và gia đình, Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 01/11/2011 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về những điều đảng viên không được làm, Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư và Quy định số 5946-QĐ/TU, ngày 13/9/2012 của Thành ủy Đà Nẵng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt, người đứng đầu các cấp.
Trong quá trình kiểm điểm, ông Nguyễn Bá Cảnh đã nhận thức rõ sai phạm, khuyết điểm của bản thân, và nhận hình thức kỷ luật.
Các cơ quan chức năng đã tiến hành xem xét, tính chất, mức độ vi phạm, khuyết điểm của ông Nguyễn Bá Cảnh là nghiêm trọng, làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của tổ chức đảng, cơ quan công tác và cá nhân ông, cần phải áp dụng hình thức kỷ luật nghiêm minh theo quy định của Đảng.
Căn cứ Quy định số 102-QĐ/TW, ngày 15/12/2017 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm, xét nội dung, tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm và quá trình công tác của ông Nguyễn Bá Cảnh, Ban Bí thư quyết định thi hành kỷ luật ông Nguyễn Bá Cảnh bằng hình thức cách tất cả các chức vụ trong Đảng./.

Thứ Bảy, 11 tháng 5, 2019

ĐẤU TRANH, NGĂN CHẶN CÁC TÀ ĐẠO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Những năm qua, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm, tạo điều kiện, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, trong đó có cả người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam.

ĐẤU TRANH, NGĂN CHẶN CÁC TÀ ĐẠO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Các đối tượng của Hội thánh Đức chúa trời truyền đạo trái phép.
Tuy nhiên, các thế lực thù địch đã tìm cách hình thành, phát triển các tà đạo nhằm xâm phạm an ninh chính trị (ANCT), trật tự an toàn xã hội (TTATXH), chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; qua đó nhằm hình thành các lực lượng đối lập với Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Nhận diện tà đạo

Theo Từ điển tiếng Việt: “Tà đạo là đạo giáo chuyên dùng bùa phép mê hoặc người; đường lối sai quấy không chính đáng”. Còn theo Đại từ điển tiếng Việt: “Tà đạo: Tôn giáo khác với tôn giáo được coi là chính thống”. PGS, TS Đặng Văn Đoài, Hiệu trưởng Trường Đại học An ninh nhân dân định nghĩa: “Tà đạo là một loại đạo lạ (so với tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống) nhưng khuynh hướng hoạt động mê tín dị đoan, phản văn hóa, vi phạm pháp luật”.
Ở Việt Nam, những năm qua, tà đạo thường xuất hiện và phát triển mạnh ở vùng nông thôn, vùng sâu xa, nhất là địa bàn Tây Nam Bộ, Tây Nguyên, Tây Bắc. Các tổ chức này đã thu hút được một số lượng người tin theo, trong đó có tà đạo đã lôi kéo hàng nghìn người tham gia, sinh hoạt tại nhiều địa phương, như: Tin lành Đề Ga, Hà Mòn, Pháp Luân Công và đặc biệt gần đây là tà đạo Hội Thánh đức Chúa Trời, dù mới chỉ xuất hiện tại Việt Nam chưa lâu, song, đã phát triển mạnh và hoạt động bất hợp pháp ở hơn 20 tỉnh, thành phố với hàng nghìn người tham gia, nhất là ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Ninh Bình, Thái Bình, Thanh Hóa… Việc tuyên truyền, phát triển tà đạo đã ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội, gây tâm lý bức xúc, hoang mang trong một bộ phận quần chúng và tín đồ các tôn giáo, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, làm phức tạp tình hình ANCT - TTATXH tại địa phương.
Qua nghiên cứu, căn cứ theo địa bàn xuất hiện, nguồn gốc xuất xứ và nội dung, phương thức hoạt động, có thể phân chia tà đạo thành hai nhóm chính: Nhóm thứ nhất có nguồn gốc hình thành liên quan đến các tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, điển hình như các tà đạo: Tin lành Đề Ga, Hà Mòn, Giáo hội Tin lành đấng Christ Việt Nam... có nguồn gốc và bản chất liên quan đến Tin lành; các tà đạo: Đạo Tràng Hương Quảng, Pháp môn Di Lặc, Bửu Tòa Tam giáo... có nguồn gốc và bản chất gắn với Phật giáo, Đạo giáo. Nhóm thứ hai có nguồn gốc từ nước ngoài truyền vào Việt Nam, như: Thanh Hải Vô Thượng sư, Pháp Luân Công, Canh tân đặc sủng... Nhóm này mang tính lai tạp giữa một số tôn giáo khác nhau, như: Phật giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian. Dù thuộc nhóm nào thì đặc điểm chung của các tà đạo này luôn tự coi mình là một tổ chức tôn giáo; giáo lý của họ chỉ là sự vay mượn hay chính xác hơn là xuyên tạc, bóp méo giáo lý của các tôn giáo khác theo hướng mê tín dị đoan để phục vụ cho ý đồ của những kẻ cầm đầu; giáo lý, lễ nghi của các tà đạo thường đơn giản, không có hệ thống và hoàn chỉnh như tôn giáo truyền thống, hàm chứa yếu tố mê tín, có màu sắc chính trị.

Từ trục lợi đến chống phá

Người tin theo các tà đạo thuộc nhiều thành phần như: Trí thức, cán bộ, viên chức và công nhân, nông dân, nhưng chủ yếu là người nghèo, có trình độ dân trí thấp; họ bị số đối tượng cầm đầu lợi dụng, lừa mị, lôi kéo tham gia. Các đối tượng sáng lập, cầm đầu và cốt cán thường là những chức sắc, chức việc và tín đồ có uy tín trong tôn giáo, dân tộc, thậm chí cả số đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị. Mục đích chính của việc hình thành và phát triển tà đạo là nhằm mục đích trục lợi cá nhân thông qua sự giúp đỡ, đóng góp tiền của, công sức của những người tin theo tà đạo. Số đối tượng cầm đầu thường triệt để lợi dụng những vấn đề bức xúc, khó khăn mà người dân không tự giải quyết được để tác động, lôi kéo họ dựa vào niềm tin tâm linh nhằm giải thoát những vướng mắc về tâm lý và tư tưởng đang nảy sinh. Hoạt động của các tà đạo chủ yếu nhằm thực hành các hoạt động mê tín dị đoan, thực hành tín ngưỡng phản khoa học, phi đạo đức và văn hóa nhằm thu lợi bất chính, như yêu cầu người tin theo phải đóng góp tiền của, công sức xây dựng mới hay tu sửa nơi thờ tự, phục vụ hoạt động duy trì và phát triển tổ chức của các đối tượng cầm đầu, cốt cán. Riêng đối với một số tà đạo như: Tin lành Đề Ga, Hà Mòn… các đối tượng cầm đầu, cốt cán thu hút, lôi kéo người tham gia tổ chức nhằm chống phá chính quyền, cản trở việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế-xã hội, xâm phạm ANCT-TTATXH tại địa phương.
Để nắm giữ niềm tin của những người tham gia, đồng thời ép buộc hoặc tiếp tục thu hút những người khác trong gia đình họ phải đi theo tà đạo, số cầm đầu, cốt cán của các tà đạo thường yêu cầu và buộc số người tin theo không được tiếp xúc và quan hệ với người khác niềm tin; không tham gia các sinh hoạt văn hóa chung của cộng đồng; không thực hiện phong tục tập quán và tín ngưỡng truyền thống của dân tộc, đồng thời phủ nhận các tôn giáo chính thống, kể cả tôn giáo đó là nguồn gốc của mình để tin và trung thành với tổ chức tà đạo; không chấp hành pháp luật hay tham gia các chương trình, chính sách phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương. Một số tà đạo mang màu sắc chính trị như: Tin lành Đề Ga”, Hà Mòn, Thanh Hải Vô Thượng sư..., số đối tượng cầm đầu, cốt cán ráo riết kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, phân biệt, chia rẽ người Kinh với người dân tộc nhằm thu hút người dân để thực hiện mưu đồ ly khai, tự trị ở các vùng dân tộc, hình thành tổ chức phản động chống phá Nhà nước Việt Nam, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; điển hình như vụ biểu tình, bạo loạn ở Tây Nguyên năm 2001, 2004 do Tin lành Đề Ga tổ chức. Ở một số nơi, số đối tượng cầm đầu các tà đạo như: Thanh Hải Vô Thượng sư, Hà Mòn… còn vu cáo chính quyền vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tìm cách khoét sâu hoặc phóng đại những hạn chế, thiếu sót của chính quyền và cán bộ, đảng viên trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo; vu cáo Nhà nước vi phạm dân chủ, nhân quyền; tạo cớ cho bên ngoài can thiệp, chống phá Nhà nước Việt Nam. Có thể khẳng định, các tà đạo đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội, tuyên truyền mê tín dị đoan, kích động tâm lý hoang mang, dao động trong quần chúng nhân dân, làm phức tạp tình hình chính trị tại địa phương, truyền bá những đức tin phản khoa học, phản văn hóa và chuẩn mực chung về đạo đức, lối sống. Đặc biệt, thông qua hoạt động của các tà đạo, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kích động tư tưởng ly khai nhằm chống phá Việt Nam.

Đấu tranh, đẩy lùi và ngăn chặn

Trong những năm qua, các cơ quan chức năng đã triển khai đồng bộ các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn hoạt động của các tà đạo; trong đó đã chủ động nắm tình hình các địa bàn, đối tượng trọng điểm về dân tộc, tôn giáo để triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng trái pháp luật. Thông qua nhiều kênh, bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú, các cơ quan chức năng đã tuyên truyền, vận động quần chúng không tin, theo kẻ xấu lôi kéo, lừa bịp tham gia tổ chức tà đạo; thấy rõ tác hại của việc tham gia các tà đạo để từ đó tự giác tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh chống các tà đạo. Chủ động xử lý nghiêm số đối tượng cầm đầu, cốt cán theo pháp luật, đồng thời vạch mặt, làm rõ bản chất chúng trước nhân dân. Tuy nhiên, công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động của các tà đạo thời gian qua còn tồn tại những hạn chế nhất định. Theo đó, để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn sự hình thành, phát triển của các tà đạo trong thời gian tới, cần tập trung làm tốt công tác đấu tranh, phòng, chống sự hình thành, phát triển của các tà đạo; đồng thời tiến hành song song với công tác bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân trên cơ sở pháp luật và phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam; sự quản lý, điều hành của Chính phủ nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong công tác này. Tiếp tục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò công tác đấu tranh, ngăn chặn hoạt động của các tà đạo, qua đó nhằm huy động sự tham gia của cả xã hội trong công tác này.
Các cơ quan chức năng cần thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo, đặc biệt là quản lý và định hướng các sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng theo thuần phong mỹ tục của dân tộc và phù hợp với luật pháp. Đối với những đối tượng chủ mưu, cầm đầu các tà đạo, các cơ quan chức năng phải xử lý kiên quyết, kịp thời, triệt để theo pháp luật; vạch trần bản chất và hành vi vi phạm pháp luật, làm mất ổn định chính trị, xã hội, chia rẽ giữa các dân tộc, tôn giáo, lợi dụng danh nghĩa tôn giáo để hoạt động tà đạo, mê tín dị đoan của số này trước quần chúng nhân dân. Tăng cường xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần phong phú, lành mạnh cho mọi người dân nhằm tạo “sức đề kháng”, “miễn dịch” mạnh mẽ trước hoạt động của các tà đạo.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam; về thành tựu đã đạt được trong việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Đặc biệt, cần tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân, làm cho người dân hiểu rõ đâu là chính đạo, đâu là tà đạo, tác hại của các tà đạo đối với đời sống vật chất, tinh thần của người dân và toàn xã hội. Từ đó vận động cán bộ, đảng viên và nhân dân tự giác tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh chống hoạt động của các tà đạo.
Chủ động triển khai nắm tình hình, dự báo kịp thời mọi âm mưu, hoạt động lôi kéo, thu hút người tham gia các hội nhóm tà đạo để triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh. Kịp thời phát hiện, phối hợp giải quyết dứt điểm các hoạt động tụ họp nhóm hoặc có hoạt động liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo không được cơ quan chức năng cho phép để vận động quần chúng giải tán, đồng thời cô lập, răn đe những kẻ cầm đầu, cốt cán trong hội nhóm tà đạo. Trong xử lý các vụ việc liên quan đến tà đạo phải bảo đảm những yêu cầu đặt ra nhằm tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi của cán bộ, đảng viên và nhân dân, kiên quyết không làm phức tạp thêm tình hình, không để sơ hở để bên ngoài lợi dụng vu cáo, xuyên tạc.
Tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo… kết hợp với thực hiện công bằng xã hội, không ngừng nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm ổn định ANCT - TTATXH tại địa phương. Tăng cường đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục truyền thống yêu nước, vận động đông đảo các chức sắc, tín đồ và nhân dân tích cực tham gia các hoạt động phát triển kinh tế, xã hội và các phong trào thi đua yêu nước tại địa phương.
 TÂN LONG

Thứ Tư, 8 tháng 5, 2019

TẦM VÓC VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ NĂM 1954

Đã 65 năm trôi qua, chiến thắng trong trận quyết chiến chiến lược tại Điện Biên Phủ (ngày 07/5/1954) là thắng lợi quyết định, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp của quân và dân ta.

TẦM VÓC VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ NĂM 1954

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, một thắng lợi “lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu”, là một sự kiện mang tầm vóc vĩ đại và bài học lịch sử rất quan trọng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Đánh giá về ý nghĩa và tầm vóc của chiến thắng Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: Điện Biên Phủ là cột mốc bằng vàng trong lịch sử dân tộc, đánh dấu nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, khởi đầu quá trình phi thực dân hóa trên phạm vi toàn thế giới.
Chiến thắng vẻ vang của dân tộc Việt Nam đã đi vào lịch sử thế giới như một bản hùng ca, song những giá trị của thắng lợi trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc luôn còn đọng mãi với lịch sử của dân tộc Việt Nam ta qua các thế hệ.
Có được những thắng lợi đó trước hết là sự kế thừa truyền thống chống giặc ngoại xâm của cha ông ta và sự vận dụng sáng tạo về lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà quân sự thiên tài.
Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, với vũ khí thô sơ và tinh thần “cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược quân sự của thực dân Pháp. Quân ta càng đánh, càng mạnh, càng thắng, quân viễn chinh Pháp càng ngày càng lún sâu vào thế bị động, lúng túng.
Vùng giải phóng của ta được mở rộng, chính quyền dân chủ nhân dân được củng cố. Đến năm 1953, nhân dân và quân đội ta đã làm chủ trên chiến trường, tạo ra sự so sánh lực lượng có lợi cho ta.
Ngày 25-1-1954, các đơn vị bộ đội ta ở vị trí tập kết sẵn sàng nổ súng theo phương châm tác chiến “đánh nhanh, giải quyết nhanh”.
Nhưng nhận thấy địch đã tăng cường lực lượng phòng ngự vững chắc, Bộ Chỉ huy và Đảng ủy chiến dịch đã đưa ra quyết định đúng đắn: Giữ vững quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thay đổi phương châm tác chiến sang “đánh chắc, tiến chắc”.
Đây là quyết định đúng đắn nhưng ta cũng gặp không ít khó khăn. Đó là, thời gian tác chiến dài hơn, cách đánh cũng khác nên có những việc ta phải chuẩn bị lại từ đầu, nhất là việc tổ chức, bố trí hệ thống hoả lực chiến dịch.
Với địa hình hiểm trở, pháo của ta kéo vào tập trung tại trận địa đã khó khăn, nay thay đổi phương châm tác chiến lại phải kéo pháo phân tán ra các trận địa mới trên các điểm cao tạo thành vòng cung bao vây tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, để bắn trực tiếp vào các mục tiêu dưới lòng chảo càng khó khăn hơn. Với tinh thần quả cảm, không quản ngại gian khổ, hy sinh, quân và dân ta đã tìm mọi cách vượt qua thử thách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ là một trận quyết chiến chiến lược, sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ôtô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch; một trận tiêu diệt điển hình nhất, trực tiếp đưa đến việc buộc thực dân Pháp xâm lược phải ngồi vào bàn hội nghị ký Hiệp định Genève về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương.
Tầm vóc và giá trị lịch sử của chiến thắng Điện Biên Phủn được thể hiện nổi bật ở mấy bài học quí sau:
Trước hết, về sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn, sáng tạo, kiên quyết và tài giỏi của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nắm vững âm mưu, kế hoạch chiến lược của địch, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kịp thời đề ra phương châm kháng chiến: “Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt” nhằm phá khối chủ lực, cơ động chiến lược của địch ngay từ trong trứng nước.
Theo đó, quân và dân ta trên khắp các địa bàn, nhất là ở đồng bằng Bắc Bộ, chủ động đẩy mạnh các hoạt động tác chiến làm cho địch không những không thể thực hiện được kế hoạch đã vạch ra, mà còn lâm vào thế bị động đối phó.
Trước nguy cơ lực lượng cơ động chiến lược trên chiến trường Đông Dương bị xé lẻ, phân tán, Na-va vội điều lực lượng lớn lên Điện Biên Phủ xây dựng tập đoàn cứ điểm, được mệnh danh là “bất khả chiến bại” hòng lôi kéo, “nghiền nát” lực lượng chủ lực của ta.
Trung ương Đảng và Bác Hồ nhận định: Đây tuy là mưu đồ của địch, nhưng cũng là thời cơ cho ta tập trung binh lực, hỏa lực để tiêu diệt quân địch, kết thúc chiến tranh. Tác chiến trên địa bàn này, ta tuy có những khó khăn nhất định, nhưng có thuận lợi cơ bản, đó là: Phát huy được sở trường đánh địch ở địa hình rừng núi, địa bàn chiến dịch tiếp giáp vùng mới giải phóng.
Đối với địch, có bất lợi: Chưa kịp xây dựng, củng cố vững chắc công sự, trận địa, lại xa hậu phương, chỉ có thể tiếp tế bằng đường không; địa thế của “lòng chảo Điện Biên” lại thấp. Trong quá trình chuẩn bị, Bộ Tư lệnh Chiến dịch nhận thấy địch đã củng cố, xây dựng nơi đây thành tập đoàn cứ điểm mạnh nên ta không thể “đánh nhanh, giải quyết nhanh”.
Vì thế, Tư lệnh Chiến dịch đã kịp thời chuyển phương châm tác chiến sang “đánh chắc, tiến chắc”.
Chủ trương trên được Bộ Chính trị nhất trí, nhưng cũng là một quyết định rất khó khăn về mặt tư tưởng đối với bộ đội, nhất là trong điều kiện lực lượng ta đã áp sát mục tiêu tiến công lại phải dừng lại để rút ra chuẩn bị kỹ hơn về: Vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, thuốc men và cách đánh.
Xuất phát từ ý nghĩa, tầm quan trọng của trận quyết chiến chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn đồng chí Võ Nguyên Giáp trước khi lên đường đi Chiến dịch: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Đánh chắc thắng, không chắc thắng không đánh” (Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng tập Hồi ký, Nxb QĐND, H. 2006, tr. 900.).
Cuộc đấu trí, đấu lực cả trước và trong Chiến dịch với phần thắng thuộc về quân và dân ta đã chứng minh sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây chính là nhân tố quyết định tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả nước đánh thắng đội quân xâm lược nhà nghề của thực dân Pháp và buộc chúng phải ký Hiệp định Genève, lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương.
Hai là, Phát huy cao nhất sức mạnh của toàn dân cho trận quyết chiến chiến lược. Tính cả trước và trong Chiến dịch, có tới 62.000 dân công, thanh niên xung phong tham gia làm và sửa chữa hàng trăm kilômét đường, nhiều bến, cầu; vận chuyển hơn 25.000 tấn lương thực, thực phẩm, hàng nghìn tấn vũ khí trang bị, đạn dược tới mặt trận; hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ được cứu chữa, chăm sóc… trở thành nhân tố quan trọng đảm bảo thắng lợi.
Ngoài nhiệm vụ phục vụ, họ còn trực tiếp tham gia chiến đấu cùng các đơn vị quân đội. Đây là “cuộc ra quân lớn nhất” của cả nước kể từ đầu cuộc kháng chiến. Thực tiễn đã khẳng định: đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc của Đảng và sức mạnh to lớn của nhân dân là nhân tố quan trọng góp phần vào thắng lợi của chiến dịch.
Ba là, Sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế. Sau gần 5 năm bị cô lập, chiến đấu trong vòng vây, cuộc kháng chiến của nhân dân ta gặp không ít khó khăn về vật chất, vũ khí, súng đạn, thậm chí cả về đấu pháp với một đội quân nhà nghề được trang bị vũ khí hiện đại...
Để khắc phục tình trạng trên, Đảng ta kiên trì đường lối kháng chiến: Toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính; đồng thời, tích cực, chủ động tìm sự ủng hộ về vật chất và tinh thần từ bên ngoài, nhất là từ các nước XHCN và các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Bên cạnh đó, Đảng còn định ra chủ trương, chính sách đúng đắn để phát triển lực lượng vũ trang, chuẩn bị vật chất hậu cần, kỹ thuật cho trận đánh lớn, kết thúc chiến tranh.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhận được sự giúp đỡ về tinh thần và vật chất ngày càng lớn của bạn bè quốc tế, nổi bật là sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân Liên Xô, Trung Quốc (Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 thắng lợi và bài học, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 600: Vũ khí, đạn dược, vật chất hậu cần, kỹ thuật là 21.517 tấn; 24 khẩu sơn pháo 75mm, 24 khẩu lựu pháo 105mm, 76 khẩu pháo cao xạ 37mm và 12 khẩu pháo hỏa tiễn H6 và 715 xe. Chỉ tính riêng trong hai năm 1953, 1954, số lượng hàng hóa viện trợ đạt 9.292 tấn.).
Ngoài ra, các nước bạn còn giúp ta trong đào tạo cán bộ, huấn luyện chuyển loại các đơn vị pháo binh, pháo cao xạ....
Chiến thắng Điện Biên Phủ mang tầm vóc thời đại, góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hoà bình, tiến bộ của nhân loại. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ giáng một đòn chí mạng vào nền móng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đánh sập thành luỹ của chủ nghĩa thực dân cũ, báo hiệu sự thất bại chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa thực dân mới do đế quốc Mỹ cầm đầu.
Sau hơn 30 năm đổi mới, thế và lực của đất nước ta đã lớn mạnh, nhưng bên cạnh những thuận lợi cơ bản, cơ hội và thách thức vẫn đan xen, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chống phá Đảng, Nhà nước và sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta.
Tình hình đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải mài sắc tinh thần cảnh giác, phát huy cao độ nội lực; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng; giữ vững và không ngừng tăng cường đoàn kết quân dân, đoàn kết hữu nghị với nhân dân và quân đội các nước bạn truyền thống; tăng cường củng quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng, an ninh, xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế và đối ngoại. 
Chú trọng xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng trên các địa bàn chiến lược, tuyến biên giới, nâng cao đời sống nhân dân, xoá đói giảm nghèo, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Tổ chức lực lượng vũ trang hợp lý, đồng bộ, cân đối giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, các quân binh chủng phù hợp với yêu cầu tác chiến mới.
Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ trong tình hình mới.
Nguyễn Huy Hiệu

Thứ Ba, 7 tháng 5, 2019

CUỘC ĐẤU PHÁO KHÔNG CÂN SỨC TRÊN ĐỒI E1

Trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ “56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt…” chiến đấu và phục vụ chiến đấu dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù đã xuất hiện nhiều tấm gương dũng cảm, mưu trí “gan không núng, chí không mòn”; những tấm gương anh dũng hy sinh “dù bom đạn xương tan, thịt nát. Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh”….

CUỘC ĐẤU PHÁO KHÔNG CÂN SỨC TRÊN ĐỒI E1
Anh hùng LLVT nhân dân Phùng Văn Khầu tặng quà gia đình chính sách trong một lần lên thăm xã Mường Păng, huyện Điện Biên.
65 năm đã trôi qua, những người lính khi đó đang độ tuổi đôi mươi nay đều đã qua tuổi bát tuần. Sau chiến tranh, những người lính lần lượt ra quân và trở về với cuộc sống đời thường, nhưng trong tất cả họ vẫn luôn tâm niệm: Là Chiến sĩ Điện Biên, là Cựu chiến binh phải luôn luôn phát huy phẩm chất và truyền thống tốt đẹp của Bộ đội cụ Hồ; thực hiện tốt đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; gương mẫu học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác; tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở…
“Không ai muốn chiến tranh để trở thành Anh hùng, nhưng khi có chiến tranh, thì cả nước cùng bảo nhau cầm súng. Nhiều đồng đội của tôi đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường, tất cả để chúng ta có cuộc sống độc lập, tự do…” - Đại tá, Anh hùng LLVT (lực lượng vũ trang) Phùng Văn Khầu mở đầu câu chuyện khi tiếp chúng tôi.
Đã 65 năm trôi qua, người lính mưu trí, dũng cảm, một mình với khẩu sơn pháo đánh địch khi đó đang độ tuổi đôi mươi nay đã gần 90 tuổi, song những ký ức trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ - về 36 ngày đêm chiến đấu trên đồi E1 vẫn vẹn nguyên trong tâm trí Đại tá Phùng Văn Khầu, dân tộc Nùng, xã Đức Hùng, huyệnTrùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
Nhớ lại những ngày cuối năm 1946, theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ, được sự động viên khích lệ của cha, ông đã cùng với bao thanh niên khác trong bản rời quê hương Trùng Khánh đến thị xã Cao Bằng tìm gặp bộ đội cách mạng.
Sau khi đăng tuyển nhập ngũ, ông xin vào Bộ đội Pháo binh bởi một suy nghĩ đơn giản “bộ binh có súng nhỏ bắn một phát chỉ được một tên địch thôi, còn pháo binh bắn một phát nhưng diệt được nhiều tên địch, đất nước sẽ mau hết giặc và sớm được giải phóng”…
Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu, sau khi quân ta giành được thắng lợi đợt 1, ngày 18/3/1954, Đại đội Sơn pháo 755 của Đại tá Phùng Văn Khầu đang đóng quân tại đồn Vàng (Phú Thọ) được lệnh hành quân gấp lên tham gia Chiến dịch.
Như bao người lính khác, ông vui mừng hò reo vì có cơ hội được ra trận, sát cánh cùng đồng đội chiến đấu giải phóng quê hương, trái ngược hẳn cái cảm giác xốn xang, bứt rứt, đứng ngồi không yên mỗi khi nghe tin từ chiến trường báo về…
“Đại đội tôi có 3 khẩu đội (mỗi khẩu đội 9 người) được cấp 3 khẩu pháo 75 ly, mỗi khẩu nặng gần 500kg, tầm bắn xa nhất là 6km. Thông thường, để di chuyển được một khẩu pháo như thế, đơn vị phải tháo rời ra từng mảnh, chia cho 27 người khuân, nhưng do yêu cầu nhiệm vụ, khẩu đội của tôi phải gấp rút vào trận địa, tôi cùng 8 đồng đội đã vác nặng gấp 3 lần bình thường. Sau 6 ngày hành quân, đến tối 20-3, chúng tôi đã tiếp cận được đồi E1 và bắt đầu chuẩn bị công sự chiến đấu...” - ông Khầu nhớ lại.
Đồi E1, nơi chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt nằm ở phía Đông Bắc trung tâm Mường Thanh, cạnh đường 42, đường Tuần Giáo vào Điện Biên. Quân Pháp đặt đồi E1 là cứ điểm quan trọng trong cụm cứ điểm phòng ngự tuyến 2 sau cụm Him Lam. E1 nằm sát đường 42, từ Him Lam qua E1 xộc thẳng vào trung tâm Mường Thanh. E1 được quân Pháp xây dựng thành một cứ điểm rất mạnh trong phòng ngự không khác gì Him Lam, có hệ thống giao thông hào bao quanh nối dọc, ngang rất cơ động trong tác chiến.
Cứ khoảng 3m giao thông hào, trên mép hào có một hố đựng sẵn vài chục quả tạc đạn màu vàng, các ụ súng máy, hầm hào thiết bị vững chắc, nóc hầm lát những khúc gỗ to đường kính 20 - 40 cm, trên xếp những bao cát, đất rất dày, rất khó phá bằng đạn pháo. Từ E1 có thể quan sát, phát hiện khống chế mọi hoạt động tiếp cận của ta từ phía đường 42 vào và là lá chắn bảo vệ an toàn cho trận địa pháo và sân bay Mường Thanh của địch…
Chính vị trí quan trọng như vậy nên trận chiến đấu ở đồi E1 luôn trong tình huống “ngàn cân treo sợi tóc”, đã là người lính chiến đấu ở đây, chắc chắn ai cũng phải “bền gan, ngoan cường, mưu trí, dũng cảm”.
Theo Đại tá Phùng Văn Khầu, trận địa pháo của địch nằm bên cạnh sông Nậm Rốm, cách khẩu đội ông khoảng 250m. Đài quan sát bổ trợ của ta nằm trong tầm bắn của xe tăng địch cách đó chưa đầy 300m, cùng với phi pháo, chúng xới tung nhiều lần khiến chiến sĩ bị thương vong tưởng không trụ nổi.
Các trận địa cối và cả các trận địa của đại đội sơn pháo của ông cũng không nằm ngoài tầm bắn của tăng địch, luôn luôn trong tình thế hiểm nguyên ác liệt, sau nhiều lần bị bắn trúng, thương vong gần hết. Người đồng đội còn lại là Khẩu đội phó kiêm pháo thủ Lý Văn Pao cũng bị trúng đạn, mất đi bàn chân trái…
Cuối cùng, đại đội sơn pháo chỉ còn lại mỗi Khẩu đội trưởng kiêm pháo thủ Phùng Văn Khầu. Dù bị thương, ông vẫn cùng với đài quan sát kiên cường bám trụ chiến đấu đến cùng, quần nhau với địch.
Một trận đấu pháo diễn ra không cân sức, vô cùng ác liệt, nhưng bằng sự dũng cảm, mưu trí, khẩu đội sơn pháo của ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tiêu diệt hoàn toàn cụm hỏa lực, trận địa pháo của địch với 4 lô cốt, 5 khẩu 105 ly, 6 khẩu đại liên, một kho đạn và nhiều sinh lực địch, phục vụ chi viện đắc lực cho bộ binh ta tiến công vào trung tâm tập đoàn cứ điểm cho đến giờ toàn thắng, 17h ngày 07/5/1954 lịch sử…
“Mỗi lần thấy đồng đội nằm xuống, được đưa về tuyến sau, tôi càng thấy mình cần phải quyết tâm cao hơn, dồn hết tâm trí vào nòng pháo để bắn hạ từng mục tiêu địch. Sau khi anh Pao bị thương, không thể chiến đấu được, lúc đó chỉ còn lại mình tôi, tình thế cấp bách, tôi gắng sức một mình thao tác từ quan sát, ngắm mục tiêu, nạp đạn, giật cò…” - giọng ông Khầu đầy nhiệt huyết, sinh động khiến chúng tôi mường tượng, cảm nhận trận chiến khốc liệt đó diễn ra ngay trước mắt.
Ngay sau khi Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, Khẩu đội trưởng kiêm pháo thủ Phùng Văn Khầu cùng một số đồng chí đã vinh dự được đại diện cho lực lượng tham gia chiến dịch, lên chiến khu Việt Bắc báo công với Bác Hồ. Tại đây, pháo thủ Phùng Văn Khầu được Bác ôm hôn, tặng Huy hiệu Chiến sĩ Điện Biên. Ngày 31/8/1955, ông và một số đồng chí khác được gặp Bác Hồ lần thứ hai và vinh dự được tuyên dương danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân…
Vậy là đã 65 năm trôi qua nhưng ký ức về những ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt…, chiến đấu dưới mưa bom bão đạn của quân thù trong tâm trí người Anh hùng LLVT nhân dân, Đại tá Phùng Văn Khầu vẫn vẹn nguyên. Khóe mắt ông cay cay, ông cười vui trong khi những giọt nước mắt trực trào rồi lăn dài trên má, rồi ông bảo, không bao giờ quên được hình ảnh ngày chiến thắng 07/5/1954, khi cờ trắng, vải trắng của địch giơ cao trên đầu dọc khắp các chiến hào - “Tất cả chúng tôi cùng sung sướng hô vang: Chiến thắng! Chiến thắng rồi, Hồ Chủ tịch muôn năm!”…
Thảo Vy

Thứ Hai, 6 tháng 5, 2019

Phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên

Trong mọi giai đoạn của cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng việc nêu gương của cán bộ, đảng viên; coi đây là một trong những phương thức lãnh đạo quan trọng của Đảng. 

Phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”; “Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”; “Muốn cho quần chúng nghe lời mình, làm theo mình thì người đảng viên từ việc làm, lời nói cho đến cách ăn ở phải thế nào cho dân tin, dân phục, dân yêu”.

Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nội dung nêu gương của cán bộ, đảng viên được thể hiện trên ba mối quan hệ: Đối với mình, đối với người và đối với việc. 

Đối với mình, không được tự cao tự đại, tự mãn, mà phải cần, kiệm, liêm, chính; phải “Nhân, Trí, Dũng, Liêm”; bản thân mình phải làm gương trong công việc từ nhỏ đến lớn, thường xuyên học tập, rèn luyện, tự phê bình, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm của bản thân về mọi mặt để tiến bộ. 

Đối với người, phải chân thành, khiêm tốn, thật thà, đoàn kết, và có tình thương yêu, bao dung, độ lượng. Đối với người, trước hết và quan trọng nhất là đối với đồng chí, đồng sự, nhất là đối với cấp dưới và sau đó là đối với quần chúng nhân dân.

Đối với việc, phải tận tâm, tận lực, có trách nhiệm, gương mẫu phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; phải luôn giữ vững nguyên tắc “Dĩ công vi thượng”, phải “chí công vô tư”, phải biết hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích của Tổ quốc, nhân dân và của Đảng.

Quy định số 08-QĐ/TW, ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, yêu cầu cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương phải “gương mẫu thực hiện Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012, của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, chủ chốt các cấp”.

Thắng lợi của nhân dân ta trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước lâu dài, đầy khó khăn, gian khổ, hy sinh, biết bao cán bộ, đảng viên đã nêu cao tấm gương sáng ngời, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. 

Nhiều cán bộ, đảng viên đã xung phong đi đầu, sẵn sàng nhận mọi khó khăn, gian khổ, thiếu thốn, thậm chí là cả hy sinh xương máu của mình để thực hiện tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tinh thần nêu gương của cán bộ, đảng viên không chỉ trong thực hiện nhiệm vụ chiến đấu, mà còn được thể hiện cả trong cuộc sống hàng ngày, với tinh thần “nhường cơm, sẻ áo”, “dành khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn”. 

Chính vì vậy mà đội ngũ cán bộ, đảng viên đã thu hút, lôi kéo, động viên được quảng đại quần chúng theo mình, không chỉ đi tiên phong, mà còn là người nêu gương cho những người khác đi theo, thực hiện tốt mọi nhiệm vụ được giao, trong mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh, góp phần làm nên thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong Đại thắng mùa xuân năm 1975 lịch sử.

Trong quá trình đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện chủ trương, nghị quyết, quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; thực hiện Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07-6-2012 về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; và Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016 về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. 

Kết quả đã bước đầu tạo chuyển biến tích cực, góp phần siết chặt kỷ luật, kỷ cương; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng, đảng viên; kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực.

Tuy nhiên, nhận thức và thực hiện trách nhiệm nêu gương của một số cấp ủy, tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên còn có những hạn chế, bất cập, kết quả chưa được như mong muốn. Đội ngũ cán bộ còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. 

Một số tổ chức Đảng, nhất là ở cấp cơ sở và không ít cán bộ, đảng viên phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong công tác chưa ngang tầm với yêu cầu, đòi hỏi của tình hình mới. 

Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược thiếu gương mẫu trong học tập, tu dưỡng, rèn luyện, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, thậm chí vi phạm nghiêm trọng kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, gây dư luận xấu trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta bước sang một giai đoạn mới với nhiều thời cơ, thuận lợi và không ít nguy cơ, khó khăn, thách thức đan xen. 

Trong khi đó, các thế lực thù địch liên tục chống phá ta về mọi mặt, đặc biệt là việc tấn công trên mặt trận tư tưởng, chính trị bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt nhằm vào đội ngũ cán bộ, đảng viên, trọng tâm là bôi nhọ, xuyên tạc, thổi phồng khuyết điểm của cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là cán bộ cấp cao để hạ thấp uy tín, chia rẽ, làm suy giảm niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta.

Vì vậy, hơn lúc nào hết phải đẩy mạnh phương thức nêu gương, đặc biệt là phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Việc phát huy trách nhiệm nêu gương của các đồng chí cán bộ cấp cao của Đảng và Nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng, có sức mạnh to lớn về tinh thần, có sức lan tỏa mạnh mẽ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; tạo động lực, niềm tin vững chắc cho quần chúng tự nguyện, tự giác làm theo để thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng, góp phần xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.

Nguyễn Vĩnh Thắng

Chủ Nhật, 5 tháng 5, 2019

THÔNG CÁO BÁO CHÍ KỲ HỌP 35 CỦA ỦY BAN KIỂM TRA TRUNG ƯƠNG

Từ ngày 24 đến 26/4/2019, tại Hà Nội, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã họp kỳ 35. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương chủ trì kỳ họp. 

THÔNG CÁO BÁO CHÍ KỲ HỌP 35 CỦA ỦY BAN KIỂM TRA TRUNG ƯƠNG

Tại kỳ họp này, Ủy ban Kiểm tra (UBKT) Trung ương đã xem xét, kết luận một số nội dung sau:
1. Về kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với Ban cán sự đảng Bộ Giao thông Vận tải (GTVT)
- Ban cán sự đảng (BCSĐ) Bộ GTVT đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, để xảy ra nhiều vi phạm, khuyết điểm trong thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại một số doanh nghiệp thuộc Bộ GTVT.
- Nguyên Bí thư BCSĐ, nguyên Bộ trưởng Đinh La Thăng (đã bị khai trừ ra khỏi Đảng và đang chấp hành hình phạt tù) chịu trách nhiệm chính và trách nhiệm người đứng đầu về những vi phạm, khuyết điểm của BCSĐ và Bộ GTVT. Cá nhân ông Đinh La Thăng vi phạm rất nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc và trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được phân công.
- Các Ủy viên BCSĐ, Thứ trưởng gồm: Đồng chí Nguyễn Hồng Trường, đồng chí Nguyễn Văn Công, đồng chí Nguyễn Ngọc Đông và đồng chí Nguyễn Nhật cùng chịu trách nhiệm về những vi phạm, khuyết điểm của BCSĐ và trách nhiệm cá nhân trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được phân công.
- Đồng chí Vũ Văn Ninh, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ có vi phạm, khuyết điểm trong việc quyết định chủ trương thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại một số doanh nghiệp thuộc Bộ GTVT.
- Đồng chí Phạm Viết Muôn, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ có vi phạm, khuyết điểm trong việc tham mưu cho lãnh đạo Chính phủ về chủ trương thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại một số doanh nghiệp thuộc Bộ GTVT.
Vi phạm của BCSĐ Bộ GTVT và các đồng chí nêu trên đã gây thất thoát lớn tiền và tài sản của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến uy tín của tổ chức đảng và ngành GTVT, gây bức xúc trong xã hội, đến mức phải xem xét, thi hành kỷ luật.
Để xảy ra các vi phạm, khuyết điểm nêu trên có trách nhiệm của các đơn vị thuộc Bộ GTVT và Văn phòng Chính phủ. UBKT Trung ương yêu cầu các tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, xử lý trách nhiệm đối với các tập thể, cá nhân liên quan.

2. Về kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với Ban Thường vụ Đảng ủy Quân chủng Hải quân, Bộ Quốc phòng
- Ban Thường vụ Đảng ủy Quân chủng Hải quân đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, giám sát, để xảy ra nhiều vi phạm, khuyết điểm trong công tác quản lý, sử dụng đất quốc phòng, để một số cán bộ, đảng viên trong Quân chủng bị xử lý hình sự.
- Đồng chí Đô đốc Nguyễn Văn Hiến, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Quân ủy Trung ương, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, trong thời gian giữ cương vị Phó Bí thư Đảng ủy, Tư lệnh Quân chủng cùng chịu trách nhiệm về những vi phạm, khuyết điểm của Ban Thường vụ Đảng ủy; chịu trách nhiệm chính về những vi phạm, khuyết điểm của Quân chủng và trách nhiệm cá nhân trong công tác quản lý, sử dụng đất quốc phòng.
- Đồng chí Phó Đô đốc Nguyễn Văn Tình, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Quân ủy Trung ương, nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Chính ủy Quân chủng chịu trách nhiệm người đứng đầu về những vi phạm, khuyết điểm của Ban Thường vụ Đảng ủy Quân chủng.
- Đồng chí Chuẩn Đô đốc Lê Văn Đạo, nguyên Đảng ủy viên, nguyên Phó Tư lệnh Quân chủng cùng chịu trách nhiệm về những vi phạm, khuyết điểm của Quân chủng và trách nhiệm cá nhân trong công tác quản lý, sử dụng đất quốc phòng.
Vi phạm của Ban Thường vụ Đảng ủy Quân chủng Hải quân và các đồng chí nêu trên đã gây thiệt hại lớn về tiền và tài sản của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến uy tín của tổ chức đảng và Quân đội, đến mức phải xem xét, thi hành kỷ luật.

3. Xem xét, thi hành kỷ luật đồng chí Trung tướng Nguyễn Hoàng Thủy, Phó Bí thư Đảng ủy, Tư lệnh Quân khu 9 và đồng chí Đại tá Trương Thanh Nam, Đảng ủy viên, Phó Tham mưu trưởng Quân khu 9, nguyên Phó Bí thư Đảng ủy, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 8, Quân khu 9
Đồng chí Trung tướng Nguyễn Hoàng Thủy và đồng chí Đại tá Trương Thanh Nam đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, quản lý, thiếu kiểm tra, để xảy ra vi phạm, khuyết điểm trong công tác quản lý, sử dụng đất tại Sư đoàn 8, để nhiều tổ chức đảng và đảng viên liên quan bị xử lý kỷ luật.
Căn cứ quy định của Đảng về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm, UBKT Trung ương quyết định thi hành kỷ luật bằng hình thức cách tất cả các chức vụ trong Đảng đối với đồng chí Trương Thanh Nam và cảnh cáo đối với đồng chí Nguyễn Hoàng Thủy.

4. Xem xét, thi hành kỷ luật đồng chí Nguyễn Bá Cảnh, Thành ủy viên, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Dân vận Thành ủy Đà Nẵng
Đồng chí Nguyễn Bá Cảnh đã vi phạm về phẩm chất đạo đức, lối sống; vi phạm quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm và các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên.
Căn cứ quy định của Đảng về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm, UBKT Trung ương đề nghị Ban Bí thư xem xét, thi hành kỷ luật đối với đồng chí Nguyễn Bá Cảnh.

5. Xem xét, thi hành kỷ luật Ban Thường vụ Huyện ủy Ba Vì, thành phố Hà Nội và các cá nhân liên quan về các vi phạm, khuyết điểm đã được kết luận tại kỳ họp 34 của UBKT Trung ương.
Xét nội dung, tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm; căn cứ quy định của Đảng về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm, UBKT Trung ương quyết định thi hành kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo đối với đồng chí Hà Xuân Hưng, Bí thư Huyện ủy và đồng chí Bạch Công Tiến, Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện; khiển trách đối với đồng chí Nguyễn Văn Hà, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện Ba Vì.
UBKT Trung ương đề nghị Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội thi hành kỷ luật theo thẩm quyền đối với Ban Thường vụ Huyện ủy Ba Vì các nhiệm kỳ 2010-2015, 2015-2020.

6. Xem xét, thi hành kỷ luật đồng chí Nguyễn Quang Dũng. Trong thời gian giữ chức vụ Đảng ủy viên, Bí thư Chi bộ, Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình, đồng chí Nguyễn Quang Dũng đã thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, quản lý, thiếu kiểm tra, giát sát, để xảy ra một số vi phạm, khuyết điểm trong công tác quản lý, sử dụng đất đai. Cá nhân đồng chí trực tiếp tham mưu và ký một số tờ trình đề nghị chuyển mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vi phạm quy định pháp luật đất đai và quy hoạch đô thị.
Căn cứ quy định của Đảng về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm, UBKT Trung ương quyết định thi hành kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo đối với đồng chí Nguyễn Quang Dũng.

7. Cũng trong kỳ họp này, UBKT Trung ương đã xem xét, kết luận kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng đối với Ban Thường vụ Tỉnh ủy và UBKT Tỉnh ủy Ninh Thuận; xem xét, giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng 04 trường hợp.
ỦY BAN KIỂM TRA TRUNG ƯƠNG

Thứ Sáu, 3 tháng 5, 2019

MỘT QUYẾT ĐỊNH MANG TÍNH LỊCH SỬ CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP

Đó là quyết định hoãn cuộc tấn công vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, xây dựng các phương án tác chiến mới, kéo pháo ra khỏi trận địa, lui về địa điểm tập kết, chuẩn bị kỹ lưỡng hơn trước giờ nổ súng.

MỘT QUYẾT ĐỊNH MANG TÍNH LỊCH SỬ CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng các cán bộ chỉ huy họp bàn kế hoạch tác chiến trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Theo như kế hoạch cũ, ta sẽ tấn công Điện Biên Phủ vào lúc 17 giờ ngày 25/01/1954. Tuy nhiên gần ngày nổ súng, một chiến sĩ của đại đoàn 312 bị địch bắt. Bộ phận thông tin kỹ thuật của ta nghe địch thông báo cho nhau qua điện đài về ngày giờ tiến công của bộ đội ta. Đây là diễn biến đầu tiên nằm ngoài dự kiến, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định hoãn lại thời gian nổ súng 24 tiếng để đánh giá lại tình hình. Là người giữ trọng trách chỉ huy chiến dịch Đại tướng Võ Nguyên Giáp không khỏi có những băn khoăn trăn trở, Đại tướng nhớ lại lời dặn của Hồ Chủ tịch trước lúc lên đường: “Chỉ được thắng không được bại, vì bại thì hết vốn”. Sau khi đánh giá lại tình hình, Đại tướng nhận thấy sự lạc quan tinh thần của bộ đội ta là rất tốt nhưng lại không đúng với thực tế của chiến trường. Nhiều người cho rằng sự xuất hiện lần đầu của lựu pháo và cao xạ sẽ làm cho quân địch choáng váng, nhưng chúng ta chỉ có vài nghìn viên. Đặc biệt, mọi người đều tin vào khí thế của bộ đội khi xuất quân, tin vào sức mạnh tinh thần. Nhưng sức mạnh tinh thần cũng chỉ có giới hạn. Không phải chỉ với sức mạnh tinh thần cao mà lúc nào cũng chiến thắng quân địch! Chúng ta cũng không thể giành chiến thắng với bất kể giá nào, vì phải giữ gìn vốn liếng cho cuộc kháng chiến lâu dài. Trong khí đó tình hình địch đã thay đổi nhiều. Chúng đã củng cố công sự phòng ngự, không còn là trận địa dã chiến. Bộ đội ta sẽ phải tiến hành một trận công kiên vào một tập đoàn cứ điểm phòng ngự vững chắc chưa từng có. Phân tích điểm mạnh của tập đoàn cứ điểm, Đại tướng nhận định ba khó khăn khi bộ đội ta tấn công: thứ nhất, bộ đội chủ lực ta đến nay chỉ tiêu diệt cao nhất là tiểu đoàn địch tăng cường, có công sự vững chắc ở Nghĩa Lộ. Ở Nà Sản, chúng ta mới đánh vào vị trí tiểu đoàn, dưới tiểu đoàn, công sự dã chiến nằm trong tập đoàn cứ điểm, vẫn có những trận không thành công, bộ đội thương vong nhiều; thứ hai, trận này tuy ta không có máy bay, xe tăng, nhưng đánh hiệp đồng binh chủng bộ binh, pháo binh với qui mô lớn lần đầu, mà lại chưa qua diễn tập; thứ ba, bộ đội ta từ trước tới nay mới chỉ quen tác chiến ban đêm, ở những địa hình dễ ẩn náu. Chủ lực ta chưa có kinh nghiệm công kiên ban ngày trên trận địa bằng phẳng, với một kẻ địch có ưu thế về máy bay, pháo binh và xe tăng. Trận đánh sẽ diễn ra trên một cánh đồng dài 15km, rộng 6-7km. Vấn đề này phải giải quyết nhanh bởi khi đó các đơn vị pháo binh đã vào vị trí, các đại đoàn đều có mặt ở tuyến xuất phát xung phong.
Nhận thấy những điểm yếu và khó khăn trên, Đại tướng đã có một quyết định sáng suốt và kịp thời là hoãn trận đánh, cho các đơn vị rút khỏi trận địa để nghiên cứu cách đánh khác dù bộ đội có thắc mắc. Phải chuyển từ phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Thời gian chuẩn bị sẽ kéo dài. Ngoài công tác chuẩn bị đánh địch ở Điện Biên Phủ, bộ đội ta cần có những hoạt động tạo nên bất ngờ mới cho địch. Sẽ điều ngay một cánh quân sang Thượng Lào thu hút quân địch về hướng này, có thể quét sạch hành lang Điện Biên Phủ - Luông Pha băng chúng mới lập ở lưu vực sông Nậm Hu và yêu cầu Liên khu V triển khai nhanh chiến dịch Tây Nguyên. Để triển khai nhanh các kế hoạch trên Đại tướng đã triệu tập cuộc họp Đảng ủy mặt trận vào ngày 26/01/1954. Trước cuộc họp Đại tướng đã có nửa giờ gặp mặt với đồng chí Vi Quốc Thanh, trưởng đoàn cố vấn Trung Quốc để trao đổi những kế hoạch của mình và đề nghị đồng chí thuyết phục các đồng chí chuyên gia đã cho rằng chỉ có đánh nhanh, thắng nhanh mới giành được thắng lợi…
Tại buổi họp Đảng ủy mặt trận, Đại tướng đã trình bày những suy nghĩ chung quanh cách đánh tập đoàn cứ điểm, những thay đổi quan trọng về phía địch từ sau hội nghị Thẩm Púa tới nay, ta vẫn giữ vững quyết tâm tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ, nhưng phải thay đổi cách đánh. Có rất nhiều ý kiến của các cán bộ chủ chốt trong cuộc họp vẫn bảo lưu kế hoạch tác chiến cũ như: “đã động viên sâu rộng bộ đội về nhiệm vụ rồi, anh em đều rất tin tưởng, quyết tâm chiến đấu rất cao. Giờ nếu thay đổi thì giải thích cho bộ đội làm sao” và “cứ giữ vững quyết tâm. Hậu cần chuẩn bị tới bây giờ đã khó khăn. Nếu không đánh ngay, sau này lại càng không đánh được” hay “lần này ta có ưu thế về binh lực, pháo 105 ly và pháo cao xạ xuất hiện lần đầu sẽ tạo bất ngờ lớn, lại có kinh nghiệm của bạn, nếu đánh vẫn có khả năng giành thắng lợi”. Trước những ý kiến đó, Đại tướng nhấn mạnh “tình hình khẩn trương. Cần sớm có quyết định. Vô luận tình hình nào, chúng ta vẫn phải nắm nguyên tắc cao nhất là: Đánh chắc thắng… tôi đề nghị các đồng chí trả lời câu hỏi “nếu đánh có chắc thắng trăm phần trăm không?”. Sau nhiều ý kiến trả lời câu hỏi trên, Đảng ủy đi tới nhất trí là trận đánh có thể gặp nhiều khó khăn mà ta chưa có biện pháp cụ thể để khắc phục. Từ đó, Đại tướng đưa ra kết luận: Để đảm bảo nguyên tắc cao nhất là “đánh chắc thắng”, cần chuyển phương châm tiêu diệt địch từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Nay quyết định hoãn cuộc tấn công. Ra lệnh cho bộ đội trên toàn tuyến lui về điểm tập kết và kéo pháo ra, chuẩn bị lại. Công tác chính trị bảo đảm triệt để chấp hành mệnh lệnh lui quân như mệnh lệnh chiến đấu. Hậu cần chuyển sang chuẩn bị theo phương châm mới.
Và thực tế đã chứng minh quyết định sáng suốt của Đại tướng, để sau một thời gian chuẩn bị lại kỹ lưỡng về mọi mặt, ngày 13/3/1954, pháo binh ta trút bão lửa xuống trung tâm đề kháng Him Lam, mở màn cho chiến dịch và trải qua 56 ngày đêm chiến đấu với những cách đánh táo bạo nhưng chắc thắng, ngày 07/5/1954 lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” tung bay trên nắp hầm sở chỉ huy của quân Pháp, chúng ta đã kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ với thắng lợi hoàn toàn.
Trung Nghĩa (tổng hợp)

Thứ Năm, 2 tháng 5, 2019

CẠM BẪY TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG: CẢNH GIÁC VỚI TỘI PHẠM MẠNG THỜI 4.0

Tội phạm sử dụng công nghệ cao ngày càng đa dạng, phức tạp và tinh vi. Thông qua các trang mạng xã hội, các ứng dụng gọi và gửi tin nhắn miễn phí như zalo, Viber hay các trò games cùng vô vàn các trang mạng trên Internet, người dùng mạng dễ dàng trở thành miếng mồi cho các đối tượng xấu.

CẠM BẪY TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG: CẢNH GIÁC VỚI TỘI PHẠM MẠNG THỜI 4.0
Các đối tượng Kim Joo Hyeon, An Kwang Ho và Kim Hong Min.
Nạn nhân của chúng có thể là những người già hưởng lương hưu, cánh chị em “nghiện fây” hoặc những người đàn ông trụ cột trong các gia đình hay các cô bé cậu bé tuổi ô mai.
Tôi xin nêu ra đây con số, hiện Việt Nam có trên 30 nhà cái quốc tế tổ chức đánh bạc, cá độ bằng việc thiết lập hàng trăm trang web và đặt máy chủ tại nước ngoài để thấy, chỉ riêng lĩnh vực này thôi cũng đủ thấy, cờ bạc trên Internet phong phú, phức tạp và “chiều lòng” các con bạc thế nào.

Muôn hình vạn trạng

Tại Hội thảo và Triển lãm quốc tế về an toàn, an ninh mạng trong hành trình chuyển đổi số do Cục An toàn thông tin (Bộ Thông tin Truyền thông) và Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (Bộ Công an), Đại tá, PGS.TS Đỗ Anh Tuấn, Cục phó Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm công nghệ cao cho biết: “Thông qua không gian mạng, nhiều đối tượng tiến hành lừa đảo qua tin nhắn rác, nhắn tin làm quen, gửi quà hoặc giả danh cơ quan thực thi pháp luật gọi điện yêu cầu người dân nộp tiền vào tài khoản; nhắn tin trúng thưởng; chiếm quyền tài khoản xã hội; mua bán qua mạng, kinh doanh đa cấp; truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy...”.
Ý kiến này đã phản ánh khá sinh động “đời sống” tội phạm sử dụng công nghệ cao hiện nay. Đối tượng phạm tội đã tiếp cận 64 triệu người dùng Internet ở Việt Nam cực kỳ dễ dàng bằng chính hạ tầng dịch vụ viễn thông, công nghệ thông tin, công nghệ số mang lại.
Có thể tạm liệt kê ra đây các loại tội phạm công nghệ cao như: Tổ chức đánh bạc và đánh bạc qua mạng; lừa đảo qua mạng; game online trái phép, game cờ bạc; phim ảnh đồi trụy; trộm cắp tiền qua tài khoản ngân hàng; tấn công mạng; lừa đảo thương mại điện tử, kinh doanh đa cấp, huy động tài chính… Tội phạm công nghệ cao ngày càng đa dạng, phức tạp, dễ biến hoá và nạn nhân của chúng có thể bất ai.
Trưa ngày 22-4, tôi nhận được cuộc điện thoại của anh lái xe trong cơ quan về việc, anh vừa nhận được cuộc gọi từ một người xưng là ở Viện Kiểm sát, bảo anh 16h đến TAND TP Hà Nội ở 42 Hai Bà Trưng để nhận giấy tờ liên quan đến giao dịch của anh tại Ngân hàng Agribank.
Nghe vậy, anh giật mình, bảo không có giao dịch gì với ngân hàng trên thì đầu dây bên kia yêu cầu cung cấp họ tên đầy đủ, số chứng minh nhân dân, địa chỉ nhà riêng… Anh răm rắp cung cấp thông tin cá nhân theo yêu cầu.
Sau đó, người này bảo sẽ nối máy cho anh nói chuyện với đường dây nóng của Bộ Công an. Người đàn ông bên kia đầu dây nói rất dài nhưng chốt lại, sẽ thông báo kết quả cho anh sau khi xác minh.
Sau cuộc gọi, anh ngồi ngẫm lại thì thấy có gì đó không bình thường, bởi bản thân anh không vay nợ ngân hàng. Với lại, do công việc nên anh cũng tiếp xúc nhiều với cán bộ Công an, anh nghe giọng người đàn ông “đường dây nóng của Bộ Công an” giống giọng đọc truyện… ma. Chính chi tiết này khiến anh cảm thấy nghi ngờ nên gọi điện chia sẻ với tôi.
Thực tế, không phải ai cũng đủ tỉnh táo để phân tích sự việc và giãi bày tâm sự với người xung quanh như anh lái xe này. Chẳng thế mà anh T, ở thành phố Hồ Chí Minh chỉ sau một cuộc gọi của người tự xưng là Cảnh sát đã 2 lần chuyển tiền vào tài khoản theo yêu cầu của người này 4,5 tỷ đồng.
Chuyện bắt đầu khi anh T nhận được cuộc gọi của một phụ nữ xưng là nhân viên bưu điện, bảo anh có bưu phẩm là lệnh bắt của Công an Hà Nội vì liên quan đến đường dây ma tuý, rửa tiền. Anh lên tiếng phủ nhận thì cô này nối máy với “anh Cảnh sát”.
“Anh Cảnh sát” yêu cầu anh T chuyển tiền đến tài khoản của cơ quan Công an, nếu không sẽ bắt giam. Sau khi xác minh, nếu anh không phạm tội cơ quan Công an sẽ trả lại. Anh T đã làm theo sự chỉ dẫn và đợi mãi không nhận được kết quả xác minh cũng như lời hứa trả lại tiền.
Giật mình, anh đến cơ quan Công an trình báo. Kết quả điều tra của cơ quan Công an cho thấy, tiền anh gửi vào hai tài khoản trên đã bị rút hết. Đứng tên chủ tài khoản không phải là cơ quan điều tra mà là hai người ở thành phố Đà Nẵng và Hà Nội.
Anh T không phải nạn nhân đầu tiên và duy nhất của chiêu lừa đảo này, nhiều người khác, đặc biệt là người cao tuổi có lương hưu, có tiền tiết kiệm gửi ở ngân hàng cũng rơi vào tình cảnh này.
Nhiều người, sau khi cuống cuồng gom góp tiền gửi vào tài khoản theo yêu cầu của chúng mới chợt tỉnh ngộ đi báo cơ quan Công an thì hầu hết, tiền đã bị chúng rút. Câu hỏi đặt ra là, nếu tìm được chủ tài khoản (mà việc này là đương nhiên), sẽ tìm ra thủ phạm.
Thế nhưng, một đồng chí Cảnh sát phòng chống tội phạm công nghệ cao cho chúng tôi biết, thường là khi tìm đến, những chủ tài khoản này không liên quan. Người thì khai rằng trước đó bị mất chứng minh nhân dân, người thì bảo được người lạ thuê mở tài khoản ngân hàng…
Thế nên, để bắt được đối tượng phạm tội trong tình huống này chẳng khác nào mò kim đáy bể và cũng bởi vì thế nên việc “đòi” lại tiền cho các nạn nhân cũng rất khó khăn.
Đã có thời gian, ở nhiều địa phương trên cả nước rộ lên tình trạng lừa đảo này nên cơ quan Công an phải phát đi thông báo trên các phương tiện truyền thông để người dân nâng cao cảnh giác, tuy nhiên tình trạng này vẫn tiếp diễn dưới nhiều hình thức.

Tội phạm người nước ngoài sử dụng công nghệ cao

Tội phạm sử dụng công nghệ cao không chỉ có ở Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới cũng đang đối diện với loại tội phạm này. Không gian mạng không giới hạn về không gian, thời gian và được thiết lập bởi những biên giới mềm nhưng không ít đối tượng phạm tội người nước ngoài lại chọn vùng lãnh thổ của Việt Nam để thực hiện hành vi phạm tội, nạn nhân chính là người cùng quốc tịch với chúng. Đây có lẽ cũng là điểm khác biệt của loại tội phạm thời đại công nghệ đang phát triển như vũ bão hiện nay.
Mới đây, ngày 18-4, Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao đã phối hợp Cục Đối ngoại, Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Công an TP. Hồ Chí Minh phát hiện, bắt giữ 3 công dân Hàn Quốc nhập cảnh vào Việt Nam tổ chức, điều hành đường dây đánh bạc trăm tỷ qua mạng Internet cho người nước ngoài đánh bạc.
Theo cơ quan Công an, 3 đối tượng Kim Joo Hyeon, An Kwang Ho, Kim Hong Min nhập cảnh vào nước ta với mục đích du lịch nhưng đã thuê server, đăng ký tên miền của nước ngoài, sau đó mua phương tiện, thuê nơi hoạt động tại Việt Nam để tổ chức thiết lập, quản trị website cho công dân Hàn Quốc đánh bạc, cá cược thể thao trên mạng Internet.
Từ tháng 11-2018 đến khi bị phát hiện, đã có hàng nghìn tài khoản chơi bạc và tham gia cá cược với số tiền khoảng 8,6 tỷ WON (tương đương 170 tỷ VNĐ). Hành vi của nhóm đối tượng này vi phạm nghiêm trọng pháp luật về cá cược, xúc tiến thể thao của Hàn Quốc, gây ra nguy cơ mất an ninh, an toàn trên không gian mạng tại Việt Nam.
Cơ quan Công an đã thu giữ tại hiện trường 20 điện thoại di động, 9 thẻ ngân hàng, 37 máy tính để bàn, 2 máy tính xách tay, 1 Modem Internet, 7 thiết bị nhận mã OTP (Token key), nhiều thiết bị điện tử và tài liệu liên quan đến hoạt động tổ chức đánh bạc.
Đại diện Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao cho biết, đây là ổ nhóm người nước ngoài phạm pháp thứ 4 mà đơn vị này đã phối hợp với Công an Bà Rịa - Vũng Tàu khám phá thành công.
Sang Việt Nam, thành lập đường dây, thiết lập hạ tầng để lừa đảo công dân trong nước bằng hình thức giả danh người của cơ quan pháp luật, dọa nạt, yêu cầu họ chuyển tiền vào tài khoản. Nhóm đối tượng 21 tên, chủ yếu là người Thái Lan và nạn nhân của chúng cũng là công dân Thái Lan đã được Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao và Công an TP Hồ Chí Minh phát hiện vào năm ngoái.
Kết quả điều tra cho thấy, nhóm đối tượng này sau khi đến Việt Nam đã thuê nhà ở TP Hồ Chí Minh, thiết lập tổng đài gọi điện trên nền Internet. Tại Việt Nam, chúng giả nhân viên bưu điện, ngân hàng, Cảnh sát Hoàng gia Thái Lan gọi điện cho nạn nhân, thông báo họ đang bị điều tra do nghi ngờ phạm pháp. Sau khi nạn nhân chuyển tiền, lập tức chúng rút hết khỏi tài khoản. Được biết, chúng đã thực hiện hàng nghìn cuộc gọi về nước và đã lừa đảo hàng triệu USD.
Mới đây nhất, ngày 20-4, tại thành phố Nha Trang (Khánh Hoà), lực lượng cảnh sát đã đột kích vào khách sạn Ba Nhất trên đường Nguyễn Tất Thành để bắt giữ 77 người có quốc tịch Trung Quốc vì sử dụng công nghệ cao để thực hiện hành vi phạm tội.
Được biết, nhóm người này đã đến đây tạm trú từ cuối năm 2018. Tại hiện trường, cơ quan Công an phát hiện bên trong khách sạn lắp đặt nhiều thiết bị công nghệ, và nhóm đối tượng này đã thực hiện hành vi lừa đảo bằng chiêu giả danh nhà chức trách để gọi điện đe dọa, yêu cầu chuyển tiền vào tài khoản… 
* Tội phạm mạng là hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin hoặc phương tiện điện tử để thực hiện tội phạm được quy định tại Bộ luật Hình sự.(Theo Luật An ninh mạng)
* Hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội:
- Chiếm đoạt tài sản; tổ chức đánh bạc, đánh bạc qua mạng Internet; trộm cắp cước viễn thông quốc tế trên nền Internet vi phạm bản quyền và sở hữu trí tuệ trên không gian mạng.
- Giả mạo trang thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức, cá nhân; làm giả, lưu hành, trộm cắp, mua bán, thu thập, trao đổi trái phép thông tin thẻ tín dụng, tài khoản ngân hàng của người khác; phát hành, cung cấp, sử dụng trái phép các phương tiện thanh toán.
- Tuyên truyền, quảng cáo, mua bán hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục cấm theo quy định của pháp luật;
- Hướng dẫn người khác thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;
- Hành vi hướng dẫn người khác sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.(Theo Luật An ninh mạng)
Cao Hồng