KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, THỜI ĐẠI CỦA CHIẾN THẮNG 30 THÁNG 4

Năm nay, trong những ngày hướng đến kỷ niệm Chiến thắng lịch sử vĩ đại 30/4/1975, nhân dân ta đón mừng sự kiện này với nhiều niềm vui mới. Theo báo cáo của Chính phủ, kinh tế Việt Nam năm 2018 khởi sắc trên cả ba khu vực sản xuất, cung - cầu của nền kinh tế cùng song hành phát triển.

NHẬN DIỆN VÀ NGĂN NGỪA THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG LÒNG YÊU NƯỚC ĐỂ KÍCH ĐỘNG NGƯỜI DÂN XUỐNG ĐƯỜNG BIỂU TÌNH, GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Người yêu nước chân chính là người biết sử dụng pháp luật, đạo đức, truyền thống tốt đẹp để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, đồng thời phải biết tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Nhận diện được phương thức, thủ đoạn lợi dụng lòng yêu nước để kích động nhân dân làm việc xấu chính là nhằm đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp, đồng thời tránh được sự lợi dụng đó để gây ra rối loạn xã hội, phức tạp tình hình.

Thông cáo báo chí kỳ họp 32 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Từ ngày 03 đến 06/12/2018 tại Hà Nội, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã họp kỳ 32. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương chủ trì kỳ họp.

UBKTTW kết luận vụ AVG: Sai phạm của ông Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn là rất nghiêm trọng

UBKTTW vừa họp kỳ 26 kết luận vụ AVG có những vi phạm của Ban cán sự đảng Bộ TT-TT, ông Nguyễn Bắc Son, ông Trương Minh Tuấn, ông Phạm Đình Trọng, của Ban Thường vụ Đảng ủy Mobifone và các ông Lê Nam Trà, Cao Duy Hải là rất nghiêm trọng.

Bốn kỳ vọng thay đổi lớn về công tác cán bộ sau 4 ngày Hội nghị T.Ư 7

Sau 4 ngày làm việc, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng được dư luận đặc biệt quan tâm, trong đó có công tác cán bộ, bởi đây là vấn đề “nóng” trong tình hình hiện nay.

Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2019

ĐÔI ĐIỀU VỀ PHÁP LUÂN CÔNG

Liên quan đến vụ “bê tông cốt… người” ở Bình Dương, sáng đọc được cái tin trên Báo Tuổi trẻ mà ''hốt cả hền". Nếu thông tin trên các báo khác là nhóm phụ nữ có liên quan đến vụ án đúc tượng người đang tu luyện theo một “giáo phái lạ”, thì Tuổi trẻ đưa hẳn: Pháp luân công!
  
ĐÔI ĐIỀU VỀ PHÁP LUÂN CÔNG

Tò mò, tôi tìm kiếm thêm thông tin từ nhiều nguồn khác, thì hóa ra đó là pháp luân công (PLC) thật, các cậu các mợ ạ!
Cũng chẳng ngạc nhiên, vì đã biết cái bản chất thằng PLC từ lâu! Chỉ lạ là sao ngày càng có nhiều người mông muội đến thế??? Lại có một vài team lập hẳn diễn đàn la toáng lên rằng: PLC vô tội, báo chí chính thống nhân sự kiện này mà vu vạ cho PLC, nhồi sọ quần chúng, phát ngôn theo ý đồ của chính quyền! Đọc đến đây, không lẽ tôi lại văng tục, chửi thề???
Một người dân ở Bình Dương, sau vụ việc đã viết trên trang cá nhân những ám ảnh của cô về một nhóm người thường xuyên tụ tập, ngồi thiền luyện PLC trắng đêm, ngay trước công viên gần nhà. Cả đêm, hình ảnh những con người vật vờ như những thây ma, ngồi im bất động trong giá rét, giữa tiếng nhạc đầy ma mị, chỉ gần sáng mới giải tán đã khiến cô không dám nhìn ra ngoài cửa sổ nhà mình. Và gần một tháng nay, nhóm này không còn lai vãng nữa. Hàng xóm của cô cho rằng: một người trong số này rất giống với một đối tượng có liên quan đến vụ án ở Bàu Bàng kia!...
Thêm một thông tin nữa là Trần Đức Linh - Một trong hai nạn nhân trong vụ giết người đổ bê tông tại Bình Dương chính là trưởng nhóm tập luyện PLC tại Quỳ Hợp, Thái Hòa (thuộc tỉnh Nghệ An). Anh này từng nhiều lần bị lập biên bản xử phạt hành chính về việc tổ chức tập luyện tà đạo này. Sau thì ly dị vợ, rồi bỏ đi đâu không rõ. Kể cả người nhà cũng không liên lạc được.
Đạo gì mà khiến con người ta bỏ xóm bỏ làng, cắt đứt liên lạc, rũ bỏ tình thân để tu luyện, hả giời??? Kết quả cuối cùng là gì - Đứt con mẹ nó bóng! Có lẽ, khi bế quan luyện công, anh ấy nằm mơ cũng không ngờ rằng: không cần chờ ngày đắc đạo, nguyên một đám đồng môn đã xúm lại đưa ảnh về cõi niết bàn, tha hồ tung tăng, phiêu diêu cực lạc! Vãi cả đạo!...
Đạo gì mà khiến con người ta hành hình nhau như trong phim kinh dị? Ung dung chung sống, tiếp tục ăn ở, tu luyện với hai cái xác người như thể, ấy không phải là tội ác? Và chỉ tiến hành ướp trà, đổ bê tông phi tang khi những cái thây kia đã bốc mùi, ảnh hưởng tới không gian tu luyện của các “đạo sĩ”, chứ không phải vì sợ trách nhiệm, phi tang,  trốn tội... Khiếp thặc!
Đến đây, sẽ có nhiều anh chị chớp chớp đôi mi ngơ ngác: Ơ! Tưởng hot trend “độc, nhảm, kinh dị” chỉ có ở “Hội thánh Đức chúa trời” gì đấy! PLC ai tham gia cũng được, miễn phí, không tốn kém gì mà còn mang lại sức khỏe, thiện lành thế cơ mà??? Thành phần tham gia PLC có cả núi những trí thức, người nổi tiếng, toàn thành phần ưu tú cả đấy chứ???
Xin thưa, Pháp Luân Công không phải là một tôn giáo, không được Nhà nước ta công nhận. Phần lớn các tư tưởng của PLC đều được sử dụng từ ý tưởng của các tôn giáo khác chứ không có gì mới. Cha đẻ của PLC là Lý Hồng Chí. Y chủ trương bài xích hạ bệ giáo chủ của tôn giáo khác, nhưng mục đích cuối cùng là để thần thánh hóa chính bản thân mình và biến tín đồ PLC trở thành những người mê muội, ốm không cần thuốc, chỉ có việc duy nhất phải làm là truyền bá PLC... Anh em thiện lành hãy bỏ chút thời gian tìm hiểu về PLC để có được cái nhìn đúng đắn về thứ “đạo” này.
PLC không thu tiền trực tiếp hội viên? Vâng ạ!. Nhưng nó bán sách (sách thì chất lượng như ẻ nhưng được thần thánh hoá, bán giá gấp mấy trăm lần); huy động tiền tín đồ trả phí cho kênh truyền hình riêng (kênh Tân Đường Nhân); tổ chức các đoàn nghệ thuật, chuyên biểu diễn, dụ dỗ bán vé trên trời; kiếm tiền thông qua trang “báo” mất dạy “Đại kỷ nguyên”. Cuối cùng, PLC sống nhờ vào huy động tiền qua các hoạt động chống Đảng cộng sản toàn cầu. Chỉ riêng việc cha đẻ Lý Hồng Chí được Mỹ chứa chấp đã đủ phơi bày bản chất thật sự của cái bả chó PLC chưa, hỡi các anh em thiện lành?
Miễn phí??? Thế mới biết, đời này chả có cái méo gì miễn phí hết. Nói cho nhanh nhá!
Vì sao thành phần theo PLC thấp thoáng có cả trí thức, người thành đạt? Vì nó đánh trúng tâm lý, đánh vào ước vọng sức khỏe, vào nhu cầu lành mạnh và chính đáng của mỗi người. Vài bài tập khí công (mà các động tác hoàn toàn vay mượn của Thái cực quyền và thiền hơi thở) đã giúp PLC tạo được hiệu ứng đặc biệt, lan tỏa nhanh, kết nối nhiều người tập. Khởi đầu hết sức lành mạnh, tự do, không ràng buộc, nhưng sau đó, PLC sử dụng nhiều lý thuyết, thần thánh hóa các bài tập để thu hút các tín đồ, rao giảng cái gọi là “niềm tin và tinh thần” quyến rũ mọi người và thực hiện kiểm soát tâm linh. Từ đó truyền đạo, lừa đảo kiếm tiền. Nói cho nhanh: Bản chất của PLC là một loại biểu đồ đa cấp mang màu sắc tôn giáo, một thứ quái thai mà bao lâu nay cha đẻ Lý Hồng Chí vẫn đang rú ầm lên về nhân quyền cho những người tham gia tập luyện.
PLC không lôi kéo? Thế hàng nghìn truyền đơn, quảng cáo, catalog... rải khắp các công viên, quảng trường, từ thành phố lớn đến vùng thôn quê, đấy là cái quần què gì??? Hãy hỏi những người dân sống gần các quảng trường, công viên, siêu thị... Đến đi toilet còn bị chúng nó rình rình dúi cho một tờ rơi tuyên truyền PLC mất cả sướng, đấy là cái quần què gì???
Thôi thì em về bảo bu sắp nhỏ, rồi dặn cả họ hàng thân tộc, có đi luyện sức khỏe ở quảng trường, công viên nhớ tránh xa đám lính anh Chí, không thì về tập Yoga cho nó lành! Không khéo có ngày lại ngủ với trà, hoặc bị nó làm cốt để đúc bê tông lúc nào chả biết!... Phỏng ạ???
Củ Chuối

Thứ Sáu, 17 tháng 5, 2019

“TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM” LÀ AI?

Với con người, lương tâm luôn là một phạm trù đạo đức, và dù trừu tượng đến đâu vẫn có thể đánh giá lương tâm của mỗi người trên cơ sở họ thực hành các giá trị chân - thiện - mỹ. Không thể gọi là có lương tâm khi “công khai hoạt động chống phá chính quyền, biến nơi ở thành nơi làm ra, tàng trữ, lưu hành, phát tán nhiều tài liệu, hoạt động chống phá Nhà nước...

“TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM” LÀ AI?

Nhiều năm qua, mỗi khi đề cập vấn đề nhân quyền tại Việt Nam, các thế lực thù địch và một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí thường sử dụng khái niệm “tù nhân lương tâm” để vu khống, bịa đặt, xuyên tạc. Và xét theo lịch sử, “tù nhân lương tâm” là khái niệm do Ân xá quốc tế (AI) “nghĩ ra” rồi dựa vào đó để áp đặt, bênh vực, dung túng một số người có hành vi vi phạm pháp luật. Vậy bản chất cái gọi “tù nhân lương tâm” là gì, “tù nhân lương tâm” ở Việt Nam vẫn được AI ra sức bảo vệ là ai?

Khái niệm mới về “tù nhân lương tâm”?
                              
Ân xá quốc tế (Amnesty International - AI) là một tổ chức phi chính phủ, ra đời năm 1961. Như Nguyễn Trường Sơn - “hiện là người làm chiến dịch cho AI ở Campuchia và Việt Nam” trả lời phỏng vấn của RFA ngày 12/3/2019 đã nói, thì trước đây người ta thường sử dụng thuật ngữ “tù nhân chính trị”, nhưng “AI nhận thấy có rất nhiều người, không hề hoạt động chính trị, mà chỉ đơn thuần thực hiện các quyền con người cơ bản của mình, hoặc các quyền công dân của mình, vì thế mà họ phải chịu cảnh tù đày, bắt bớ, đàn áp.
Những người như vậy nếu xét theo tiêu chuẩn của một tù nhân chính trị thì không phải, cho nên AI đã nghĩ ra một khái niệm mới, đó là tù nhân lương tâm”! Và xem xét cách thức AI sử dụng khái niệm này thì phải khẳng định bản chất vấn đề là ở chỗ: AI cố tình sản xuất ra một khái niệm mập mờ để xóa nhòa ranh giới giữa người hoạt động nhân quyền đích thực với người chỉ nấp dưới chiêu bài nhân quyền để gây rối, chống đối, phá hoại.
Qua thực tế sử dụng cái gọi “tù nhân lương tâm” nhằm vu cáo chính quyền tại một số quốc gia, AI tỏ rõ thái độ xem thường, bất chấp luật pháp, xâm phạm vào công việc nội bộ của một số quốc gia có chủ quyền.
Điều này giúp lý giải tại sao đầu năm 2016, đề cập “báo cáo nhân quyền năm 2015” của AI, Bộ Ngoại giao Thái Lan cho rằng phần đề cập nhân quyền tại Thái Lan là “không cân bằng”, “không xét bối cảnh đặc biệt” của nước này, “phớt lờ các thách thức dai dẳng Thái Lan đang đối mặt, đó là nhu cầu phải có sự cân bằng giữa quyền tự do tụ tập, tự do bày tỏ quan điểm trong khi phải ngăn chặn những xung đột chính trị tái diễn...; không phản ánh các tiến triển tích cực xuất phát tự nỗ lực thực sự của Chính phủ Thái Lan để cải thiện nhân quyền”.
Về cơ bản, “tù nhân chính trị” là khái niệm chỉ các cá nhân có quan điểm, hành vi vi phạm pháp luật, đe dọa, thách thức chính quyền, xâm phạm an ninh, chủ quyền quốc gia nên bị tòa án xét xử, bị giam giữ hoặc quản thúc. Luật pháp mọi quốc gia trên thế giới đều có điều khoản cụ thể về các hành vi này, làm cơ sở để tòa án xác định tội danh.
Cần nhấn mạnh, đã vi phạm pháp luật thì không cá nhân nào có quyền miễn trừ, dù người đó có được AI gắn nhãn hiệu “tù nhân lương tâm”. Do vậy, với việc “nghĩ ra” khái niệm “tù nhân lương tâm” sử dụng làm quy chuẩn áp đặt lên thế giới, AI đã cố tình tấn công các quốc gia lựa chọn con đường phát triển riêng, không chấp nhận sự chi phối của các thế lực đã tạo dựng AI; đồng thời biện hộ, bảo vệ người gây rối xã hội, chống phá chế độ, xâm phạm an ninh quốc gia… và bị pháp luật xử lý.
Dư luận thế giới đã rất nhiều lần lên tiếng phản đối, coi báo cáo nhân quyền của AI chỉ một chiều; AI không coi hành vi đe dọa an ninh là yếu tố cần xem xét, và mở rộng sự độc đoán, thúc đẩy ý thức hệ của khái niệm nhân quyền. Và người làm việc ở AI cũng nhận ra điều này, như tại Hội nghị hội đồng quốc tế AI tổ chức ở Dakar (Senegan) có đại biểu cho rằng “AI có thể biến thành một “cửa hàng tạp hóa nhân quyền” và mất uy tín”.
Còn F. Boyle - cựu thành viên ban điều hành AI tại Mỹ, nói: “AI chủ yếu được thúc đẩy không phải vì quyền con người, mà vì sự công khai. Thứ hai, là tiền. Thứ ba, nhiều thành viên hơn. Thứ tư là trận chiến nội bộ. Cuối cùng mới là quyền con người”...

Những kẻ buôn lương tâm

Nhiều năm nay, trong các loại tuyên bố, phúc trình, báo cáo, phát ngôn… của một số tổ chức, cá nhân, thậm chí một số chính phủ, về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, khái niệm “tù nhân lương tâm” được sử dụng như mặc định để biện hộ cho một số người Việt Nam có hành vi vi phạm pháp luật, bị tòa án nhân dân (TAND) xét xử, tuyên án...
Mỗi khi một vụ án liên quan hoạt động chống phá Nhà nước được đưa ra xét xử, là AI vội trưng cái gọi “tù nhân lương tâm” để vu cáo Việt Nam, yêu cầu “phải trả tự do vô điều kiện”! Trong số người được AI gọi là “tù nhân lương tâm” và một mực bảo vệ, nổi lên thấy có Thích Quảng Độ, Nguyễn Văn Lý, Lê Công Định, Nguyễn Đan Quế, Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Trần Thị Nga, Tạ Phong Tần, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Văn Hải, Hoàng Đức Bình, Huỳnh Trương Ca...
Với con người, lương tâm luôn là một phạm trù đạo đức, và dù trừu tượng đến đâu vẫn có thể đánh giá lương tâm của mỗi người trên cơ sở họ thực hành các giá trị chân - thiện - mỹ. Không thể gọi là có lương tâm khi “công khai hoạt động chống phá chính quyền, biến nơi ở thành nơi làm ra, tàng trữ, lưu hành, phát tán nhiều tài liệu, hoạt động chống phá Nhà nước, thành lập cái gọi là đảng Thăng tiến Việt Nam, móc nối, cấu kết các thế lực phản động ở trong và ngoài nước chống đối Nhà nước, đi ngược lại lợi ích của nhân dân, của dân tộc” như Nguyễn Văn Lý; “lợi dụng các quyền tự do dân chủ, kích động nhân dân chống chính quyền, chống chế độ, gây phương hại tới an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội” như Nguyễn Ngọc Như Quỳnh; “đưa ra đường lối, các kế hoạch hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, cấu kết với đối tượng cầm đầu tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài để bàn bạc, thống nhất phương thức hoạt động để lật đổ chính quyền nhân dân…” như Trần Huỳnh Duy Thức; “thường xuyên đăng tải, chia sẻ trên Facebook cá nhân những thông tin, tài liệu tuyên truyền nói xấu chế độ, cổ vũ đa nguyên, đa đảng; kích động người dân Giáo xứ Trung Nghĩa (Hà Tĩnh) bao vây, tấn công tổ tuần tra của Công an, đập phá tài sản nhà trưởng Công an xã, kéo lên trụ sở Công an huyện, UBND huyện Lộc Hà (Hà Tĩnh) gây mất trật tự an ninh” như Hoàng Đức Bình…
Chỉ với âm mưu lật đổ chế độ, tấn công lực lượng chức năng, đập phá trụ sở chính quyền thì ở bất kỳ quốc gia nào cũng bị truy tố, xét xử trước pháp luật. Riêng có AI lu loa đó là “hoạt động ôn hòa, thực thi quyền tự do bày tỏ ý kiến để thúc đẩy nhân quyền”!
Trong quan hệ với Việt Nam, càng gần đây AI càng tỏ ra ngạo mạn, hung hăng, luôn tìm cách phê phán, xuyên tạc mọi sự kiện, hành vi vi phạm pháp luật. Đối với Luật An ninh mạng của Việt Nam, AI vừa gửi “thư ngỏ” đến Quốc hội Việt Nam để phản đối, vừa gửi “thư ngỏ” đến Facebook, Microsoft, Samsung Apple, Google, để yêu cầu “tạo áp lực lên Nhà nước Việt Nam”!
Dù không được mời dự Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) tổ chức tháng 9/2018 ở Hà Nội, AI vẫn cố tình cử người đến, và không được nhập cảnh thì la lối vu cáo. Ngày 09/3/2019, sau khi cơ quan Công an thông báo bắt giữ Hà Văn Nam để điều tra hành vi “Gây rối trật tự công cộng”, AI lập tức gắn cho người này nhãn hiệu “tù nhân lương tâm”, đòi “phải trả tự do ngay lập tức”!
Thậm chí, gần đây, trước - trong và sau các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm xét xử Từ Công Nghĩa, Nguyễn Quốc Hoàn, Lưu Văn Vịnh, Phan Trung, Nguyễn Văn Đức Độ vì đã hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, lập tổ chức phản động, tuyên truyền đả kích, bôi nhọ, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và lật đổ Nhà nước, AI cũng la lối bằng đủ loại tuyên bố, yêu cầu, vu cáo, xuyên tạc…
Đề cập cái gọi là “tù nhân lương tâm” ở Việt Nam theo quan niệm của AI, Kim Âu - một kẻ nổi tiếng chống cộng, cho rằng: “Gọi chúng là tù nhân lương tâm thì sai nên sửa lại là “tù nhận lương tháng” mới đúng”! Ý kiến của Kim Âu dựa trên điều ông ta cho rằng các “tù nhân lương tâm” này không quan tâm đến nhân quyền, mà chỉ hoạt động để kiếm tiền tài trợ của nước ngoài.
Sau khi ra nước ngoài định cư, qua bài “Cây muốn lặng, gió chẳng đừng”, Trần Khải Thanh Thủy kể các khoản lương hằng tháng người này được chu cấp gồm: tổ chức khủng bố “Việt Tân” 200 USD, Bích Huyền 400 USD, Báo Người Việt 200 USD, “từ Đàn chim Việt đến Viet Tide, Người Việt, Thời báo, bèo nhất cũng trả 25 USD, cao nhất là 80 - 100 USD/bài, còn lại từ 30 - 50 USD một bài”!... Do đó, chỉ có thể coi đây là những người buôn lương tâm, họ lấy AI làm chỗ dựa, là thế lực giúp họ biện hộ cho mọi hành vi bất minh.
Xét đến cùng, lương tâm là nền tảng tinh thần để mỗi người tự điều hướng suy nghĩ, hành động. Người trân trọng lương tâm sẽ có hành vi lành mạnh, đúng đắn, góp điều tốt đẹp với cuộc sống. Vì thế, trong xã hội đã nảy sinh hai khái niệm đối lập nhau là lương tâm và vô lương tâm.
Từ thái độ, việc làm của AI với cộng đồng quốc tế và Việt Nam, hoàn toàn có thể đặt các câu hỏi: Phải chăng AI quan tâm bảo vệ hành vi vô lương tâm hơn là ca ngợi, bảo vệ các hành vi biểu thị cho giá trị của lương tâm? Phải chăng trên thực tế, AI không chỉ bảo bọc người vi phạm pháp luật, mà còn cố tình làm chỗ dựa giúp một số người biến lương tâm thành món hàng để trục lợi?
Tất nhiên, chỉ những người đang tổ chức, điều hành AI mới có thể trả lời các câu hỏi này, cũng chỉ có họ mới là yếu tố quyết định AI có hành xử thật sự xứng đáng với những gì tổ chức này vẫn rêu rao. Và cũng chỉ có họ mới điều chỉnh được lương tâm của chính AI trước khi phán xét vấn đề nhân quyền, hoặc gắn tên tuổi của bất kỳ người nào với khái niệm “lương tâm”./.
Phạm Nguyễn

Thứ Năm, 16 tháng 5, 2019

DI CHÚC CỦA BÁC HỒ LÀ TÀI SẢN VÔ GIÁ CỦA DÂN TỘC

Cách đây gần 50 năm, ngày 02/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi vào cõi vĩnh hằng, để lại nỗi tiếc thương vô hạn đối với đồng bào, chiến sỹ cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế. Trước lúc ra đi, Bác đã để lại di chúc thiêng liêng, là tài sản vô giá mà kết tinh trong đó là những điều cốt lõi về tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, để cho mỗi cán bộ đảng viên và nhân dân các thế hệ sau học tập và làm theo, nhằm xây dựng một đất nước Việt Nam ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh như mong muốn của Người.

DI CHÚC CỦA BÁC HỒ LÀ TÀI SẢN VÔ GIÁ CỦA DÂN TỘC

Di chúc đã để lại những điều căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền và sự lãnh đạo, cầm quyền của đảng; về chăm lo đối với con người và thế hệ trẻ; về quản lý xã hội, chính sách xã hội, an sinh xã hội sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta giành thắng lợi. Di chúc là sự tổng kết lý luận và thực tiễn về sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và nhân dân Việt Nam, là lý luận về đổi mới và tương lai phát triển của đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh được phản ánh trong di chúc, trước hết thể hiện quyết tâm chiến lược của Đảng, nhân dân, các lực lượng vũ trang của ta trong việc đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, khẳng định niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi cuối cùng là giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước, nam bắc sum họp một nhà. Người đặt niềm tin vào sự tất thắng đó: “Cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”. Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh trong di chúc có tầm chiến lược, là những chỉ dẫn quan trọng cho Đảng trong việc hoạch định đường lối, phương hướng, xác định nhiệm vụ, kế hoạch, chính sách, chương trình hành động cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đưa đất nước phát triển bền vững.
Đạo đức Hồ Chí Minh là điểm nổi bật cả trong tư tưởng và phong cách Hồ Chí Minh. Đạo đức mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trong di chúc là đạo đức cách mạng với hệ chuẩn mực giá trị cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Đó cũng là đạo đức hành động, mà điểm đặc biệt nhấn mạnh là đạo đức và sự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên trong điều kiện đảng cầm quyền. Đó là đạo đức trong quan hệ giữa đảng với nhân dân, giữa nhà nước với nhân dân, sự quan tâm chăm lo của đảng đối với giáo dục, rèn luyện đạo đức trong các tầng lớp nhân dân, nhất là đối với thế hệ trẻ tương lai của đất nước. Người căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Điều đầu tiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm, đó là căn dặn Đảng ta phải chăm lo củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, thường xuyên đổi mới và chỉnh đốn Đảng để có đủ sức mạnh và uy tín của người cầm lái, dẫn đường cho quần chúng hướng theo. Người khẳng định: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của đảng và của dân ta”. Người nêu rõ: “Các đồng chí từ trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Theo Người, muốn có sự đoàn kết chân thành và thực sự lâu dài thì phải “thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò cầm quyền và trọng trách lịch sử của đảng, tính tiên phong gương mẫu của cán bộ đảng viên trước đảng và trước nhân dân. Người căn dặn: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh giành cho thế hệ trẻ của đất nước tình yêu thương, sự quan tâm và niềm tin sâu sắc. Người căn dặn Đảng ta phải quan tâm chăm lo đào tạo, bồi dưỡng thế hệ kế tục sự nghiệp cách mạng cho đời sau. Người nêu rõ: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Căn dặn Đảng và Chính phủ phải quan tâm tạo mọi điều kiện giúp đỡ chị em phụ nữ để họ tiến bộ và trưởng thành, đồng thời bản thân chị em phụ nữ cũng phải tích cực phấn đấu vươn lên đáp ứng với trách nhiệm của mình.
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất trăn trở, lo nghĩ nhiều về đoàn kết quốc tế, nhất là trước sự bất đồng giữa các Đảng Cộng sản anh em. Người coi đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa và các đảng anh em là điều kiện quan trọng đảm bảo cho phong trào cộng sản và công nhân đến toàn thắng.
Có thể nhận thấy rằng, di chúc của Bác thực sự là mẫu mực tuyệt vời về sự ứng xử, tinh tế và cao thượng của một vị lãnh tụ cách mạng thiên tài, người con ưu tú của dân tộc, sự khoáng đạt, cởi mở, hài hòa, nhân ái, vị tha, khoan dung, độ lượng và tình nghĩa, thủy chung sâu sắc. Đó là sự hoàn chỉnh chân - thiện - mỹ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân sinh động và cảm động, có sức cảm hóa lay động muôn triệu trái tim con người Việt Nam và nhân loại trên thế giới; phản ánh sâu sắc cách sống, sinh hoạt hết sức bình dị nhưng vô cùng cao quý, trọn đời vì nước, vì dân. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được đúc kết thật sâu sắc trong di chúc của Bác, những lời căn dặn của Bác trước lúc đi xa dành cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta vô cùng sâu sắc và quý báu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam trước mắt và lâu dài. Do vậy sẽ trường tồn mãi mãi theo thời gian để mỗi cán bộ đảng viên và nhân dân Việt Nam học tập và làm theo./.     
Thảo Nhiên

Thứ Tư, 15 tháng 5, 2019

BAN BÍ THƯ QUYẾT ĐỊNH THI HÀNH KỶ LUẬT ÔNG NGUYỄN BÁ CẢNH

Ngày 14/5, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Ban Bí thư họp xem xét, thi hành kỷ luật ông Nguyễn Bá Cảnh, Thành ủy viên, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Dân vận Thành ủy Đà Nẵng.

BAN BÍ THƯ QUYẾT ĐỊNH THI HÀNH KỶ LUẬT ÔNG NGUYỄN BÁ CẢNH

Sau khi xem xét đề nghị của Ủy ban Kiểm tra Trung ương tại Tờ trình số 193-TTr/UBKTTW, ngày 06-5-2019, Ban Bí thư nhận thấy:
Trong thời gian giữ các cương vị Thành ủy viên, Bí thư Thành đoàn Đà Nẵng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Dân vận Thành ủy Đà Nẵng, ông Nguyễn Bá Cảnh đã sống chung với người khác như vợ chồng và có con riêng khi đang có vợ trong thời gian hôn nhân hợp pháp, vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống; vi phạm Luật Hôn nhân và gia đình, Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 01/11/2011 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về những điều đảng viên không được làm, Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư và Quy định số 5946-QĐ/TU, ngày 13/9/2012 của Thành ủy Đà Nẵng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt, người đứng đầu các cấp.
Trong quá trình kiểm điểm, ông Nguyễn Bá Cảnh đã nhận thức rõ sai phạm, khuyết điểm của bản thân, và nhận hình thức kỷ luật.
Các cơ quan chức năng đã tiến hành xem xét, tính chất, mức độ vi phạm, khuyết điểm của ông Nguyễn Bá Cảnh là nghiêm trọng, làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của tổ chức đảng, cơ quan công tác và cá nhân ông, cần phải áp dụng hình thức kỷ luật nghiêm minh theo quy định của Đảng.
Căn cứ Quy định số 102-QĐ/TW, ngày 15/12/2017 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm, xét nội dung, tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm và quá trình công tác của ông Nguyễn Bá Cảnh, Ban Bí thư quyết định thi hành kỷ luật ông Nguyễn Bá Cảnh bằng hình thức cách tất cả các chức vụ trong Đảng./.

Thứ Bảy, 11 tháng 5, 2019

ĐẤU TRANH, NGĂN CHẶN CÁC TÀ ĐẠO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Những năm qua, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm, tạo điều kiện, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, trong đó có cả người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam.

ĐẤU TRANH, NGĂN CHẶN CÁC TÀ ĐẠO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Các đối tượng của Hội thánh Đức chúa trời truyền đạo trái phép.
Tuy nhiên, các thế lực thù địch đã tìm cách hình thành, phát triển các tà đạo nhằm xâm phạm an ninh chính trị (ANCT), trật tự an toàn xã hội (TTATXH), chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; qua đó nhằm hình thành các lực lượng đối lập với Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Nhận diện tà đạo

Theo Từ điển tiếng Việt: “Tà đạo là đạo giáo chuyên dùng bùa phép mê hoặc người; đường lối sai quấy không chính đáng”. Còn theo Đại từ điển tiếng Việt: “Tà đạo: Tôn giáo khác với tôn giáo được coi là chính thống”. PGS, TS Đặng Văn Đoài, Hiệu trưởng Trường Đại học An ninh nhân dân định nghĩa: “Tà đạo là một loại đạo lạ (so với tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống) nhưng khuynh hướng hoạt động mê tín dị đoan, phản văn hóa, vi phạm pháp luật”.
Ở Việt Nam, những năm qua, tà đạo thường xuất hiện và phát triển mạnh ở vùng nông thôn, vùng sâu xa, nhất là địa bàn Tây Nam Bộ, Tây Nguyên, Tây Bắc. Các tổ chức này đã thu hút được một số lượng người tin theo, trong đó có tà đạo đã lôi kéo hàng nghìn người tham gia, sinh hoạt tại nhiều địa phương, như: Tin lành Đề Ga, Hà Mòn, Pháp Luân Công và đặc biệt gần đây là tà đạo Hội Thánh đức Chúa Trời, dù mới chỉ xuất hiện tại Việt Nam chưa lâu, song, đã phát triển mạnh và hoạt động bất hợp pháp ở hơn 20 tỉnh, thành phố với hàng nghìn người tham gia, nhất là ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Ninh Bình, Thái Bình, Thanh Hóa… Việc tuyên truyền, phát triển tà đạo đã ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội, gây tâm lý bức xúc, hoang mang trong một bộ phận quần chúng và tín đồ các tôn giáo, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, làm phức tạp tình hình ANCT - TTATXH tại địa phương.
Qua nghiên cứu, căn cứ theo địa bàn xuất hiện, nguồn gốc xuất xứ và nội dung, phương thức hoạt động, có thể phân chia tà đạo thành hai nhóm chính: Nhóm thứ nhất có nguồn gốc hình thành liên quan đến các tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, điển hình như các tà đạo: Tin lành Đề Ga, Hà Mòn, Giáo hội Tin lành đấng Christ Việt Nam... có nguồn gốc và bản chất liên quan đến Tin lành; các tà đạo: Đạo Tràng Hương Quảng, Pháp môn Di Lặc, Bửu Tòa Tam giáo... có nguồn gốc và bản chất gắn với Phật giáo, Đạo giáo. Nhóm thứ hai có nguồn gốc từ nước ngoài truyền vào Việt Nam, như: Thanh Hải Vô Thượng sư, Pháp Luân Công, Canh tân đặc sủng... Nhóm này mang tính lai tạp giữa một số tôn giáo khác nhau, như: Phật giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian. Dù thuộc nhóm nào thì đặc điểm chung của các tà đạo này luôn tự coi mình là một tổ chức tôn giáo; giáo lý của họ chỉ là sự vay mượn hay chính xác hơn là xuyên tạc, bóp méo giáo lý của các tôn giáo khác theo hướng mê tín dị đoan để phục vụ cho ý đồ của những kẻ cầm đầu; giáo lý, lễ nghi của các tà đạo thường đơn giản, không có hệ thống và hoàn chỉnh như tôn giáo truyền thống, hàm chứa yếu tố mê tín, có màu sắc chính trị.

Từ trục lợi đến chống phá

Người tin theo các tà đạo thuộc nhiều thành phần như: Trí thức, cán bộ, viên chức và công nhân, nông dân, nhưng chủ yếu là người nghèo, có trình độ dân trí thấp; họ bị số đối tượng cầm đầu lợi dụng, lừa mị, lôi kéo tham gia. Các đối tượng sáng lập, cầm đầu và cốt cán thường là những chức sắc, chức việc và tín đồ có uy tín trong tôn giáo, dân tộc, thậm chí cả số đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị. Mục đích chính của việc hình thành và phát triển tà đạo là nhằm mục đích trục lợi cá nhân thông qua sự giúp đỡ, đóng góp tiền của, công sức của những người tin theo tà đạo. Số đối tượng cầm đầu thường triệt để lợi dụng những vấn đề bức xúc, khó khăn mà người dân không tự giải quyết được để tác động, lôi kéo họ dựa vào niềm tin tâm linh nhằm giải thoát những vướng mắc về tâm lý và tư tưởng đang nảy sinh. Hoạt động của các tà đạo chủ yếu nhằm thực hành các hoạt động mê tín dị đoan, thực hành tín ngưỡng phản khoa học, phi đạo đức và văn hóa nhằm thu lợi bất chính, như yêu cầu người tin theo phải đóng góp tiền của, công sức xây dựng mới hay tu sửa nơi thờ tự, phục vụ hoạt động duy trì và phát triển tổ chức của các đối tượng cầm đầu, cốt cán. Riêng đối với một số tà đạo như: Tin lành Đề Ga, Hà Mòn… các đối tượng cầm đầu, cốt cán thu hút, lôi kéo người tham gia tổ chức nhằm chống phá chính quyền, cản trở việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế-xã hội, xâm phạm ANCT-TTATXH tại địa phương.
Để nắm giữ niềm tin của những người tham gia, đồng thời ép buộc hoặc tiếp tục thu hút những người khác trong gia đình họ phải đi theo tà đạo, số cầm đầu, cốt cán của các tà đạo thường yêu cầu và buộc số người tin theo không được tiếp xúc và quan hệ với người khác niềm tin; không tham gia các sinh hoạt văn hóa chung của cộng đồng; không thực hiện phong tục tập quán và tín ngưỡng truyền thống của dân tộc, đồng thời phủ nhận các tôn giáo chính thống, kể cả tôn giáo đó là nguồn gốc của mình để tin và trung thành với tổ chức tà đạo; không chấp hành pháp luật hay tham gia các chương trình, chính sách phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương. Một số tà đạo mang màu sắc chính trị như: Tin lành Đề Ga”, Hà Mòn, Thanh Hải Vô Thượng sư..., số đối tượng cầm đầu, cốt cán ráo riết kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, phân biệt, chia rẽ người Kinh với người dân tộc nhằm thu hút người dân để thực hiện mưu đồ ly khai, tự trị ở các vùng dân tộc, hình thành tổ chức phản động chống phá Nhà nước Việt Nam, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; điển hình như vụ biểu tình, bạo loạn ở Tây Nguyên năm 2001, 2004 do Tin lành Đề Ga tổ chức. Ở một số nơi, số đối tượng cầm đầu các tà đạo như: Thanh Hải Vô Thượng sư, Hà Mòn… còn vu cáo chính quyền vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tìm cách khoét sâu hoặc phóng đại những hạn chế, thiếu sót của chính quyền và cán bộ, đảng viên trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo; vu cáo Nhà nước vi phạm dân chủ, nhân quyền; tạo cớ cho bên ngoài can thiệp, chống phá Nhà nước Việt Nam. Có thể khẳng định, các tà đạo đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội, tuyên truyền mê tín dị đoan, kích động tâm lý hoang mang, dao động trong quần chúng nhân dân, làm phức tạp tình hình chính trị tại địa phương, truyền bá những đức tin phản khoa học, phản văn hóa và chuẩn mực chung về đạo đức, lối sống. Đặc biệt, thông qua hoạt động của các tà đạo, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kích động tư tưởng ly khai nhằm chống phá Việt Nam.

Đấu tranh, đẩy lùi và ngăn chặn

Trong những năm qua, các cơ quan chức năng đã triển khai đồng bộ các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn hoạt động của các tà đạo; trong đó đã chủ động nắm tình hình các địa bàn, đối tượng trọng điểm về dân tộc, tôn giáo để triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng trái pháp luật. Thông qua nhiều kênh, bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú, các cơ quan chức năng đã tuyên truyền, vận động quần chúng không tin, theo kẻ xấu lôi kéo, lừa bịp tham gia tổ chức tà đạo; thấy rõ tác hại của việc tham gia các tà đạo để từ đó tự giác tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh chống các tà đạo. Chủ động xử lý nghiêm số đối tượng cầm đầu, cốt cán theo pháp luật, đồng thời vạch mặt, làm rõ bản chất chúng trước nhân dân. Tuy nhiên, công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động của các tà đạo thời gian qua còn tồn tại những hạn chế nhất định. Theo đó, để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn sự hình thành, phát triển của các tà đạo trong thời gian tới, cần tập trung làm tốt công tác đấu tranh, phòng, chống sự hình thành, phát triển của các tà đạo; đồng thời tiến hành song song với công tác bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân trên cơ sở pháp luật và phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam; sự quản lý, điều hành của Chính phủ nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong công tác này. Tiếp tục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò công tác đấu tranh, ngăn chặn hoạt động của các tà đạo, qua đó nhằm huy động sự tham gia của cả xã hội trong công tác này.
Các cơ quan chức năng cần thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo, đặc biệt là quản lý và định hướng các sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng theo thuần phong mỹ tục của dân tộc và phù hợp với luật pháp. Đối với những đối tượng chủ mưu, cầm đầu các tà đạo, các cơ quan chức năng phải xử lý kiên quyết, kịp thời, triệt để theo pháp luật; vạch trần bản chất và hành vi vi phạm pháp luật, làm mất ổn định chính trị, xã hội, chia rẽ giữa các dân tộc, tôn giáo, lợi dụng danh nghĩa tôn giáo để hoạt động tà đạo, mê tín dị đoan của số này trước quần chúng nhân dân. Tăng cường xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần phong phú, lành mạnh cho mọi người dân nhằm tạo “sức đề kháng”, “miễn dịch” mạnh mẽ trước hoạt động của các tà đạo.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam; về thành tựu đã đạt được trong việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Đặc biệt, cần tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân, làm cho người dân hiểu rõ đâu là chính đạo, đâu là tà đạo, tác hại của các tà đạo đối với đời sống vật chất, tinh thần của người dân và toàn xã hội. Từ đó vận động cán bộ, đảng viên và nhân dân tự giác tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh chống hoạt động của các tà đạo.
Chủ động triển khai nắm tình hình, dự báo kịp thời mọi âm mưu, hoạt động lôi kéo, thu hút người tham gia các hội nhóm tà đạo để triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh. Kịp thời phát hiện, phối hợp giải quyết dứt điểm các hoạt động tụ họp nhóm hoặc có hoạt động liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo không được cơ quan chức năng cho phép để vận động quần chúng giải tán, đồng thời cô lập, răn đe những kẻ cầm đầu, cốt cán trong hội nhóm tà đạo. Trong xử lý các vụ việc liên quan đến tà đạo phải bảo đảm những yêu cầu đặt ra nhằm tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi của cán bộ, đảng viên và nhân dân, kiên quyết không làm phức tạp thêm tình hình, không để sơ hở để bên ngoài lợi dụng vu cáo, xuyên tạc.
Tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo… kết hợp với thực hiện công bằng xã hội, không ngừng nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm ổn định ANCT - TTATXH tại địa phương. Tăng cường đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục truyền thống yêu nước, vận động đông đảo các chức sắc, tín đồ và nhân dân tích cực tham gia các hoạt động phát triển kinh tế, xã hội và các phong trào thi đua yêu nước tại địa phương.
 TÂN LONG

Thứ Tư, 8 tháng 5, 2019

TẦM VÓC VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ NĂM 1954

Đã 65 năm trôi qua, chiến thắng trong trận quyết chiến chiến lược tại Điện Biên Phủ (ngày 07/5/1954) là thắng lợi quyết định, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp của quân và dân ta.

TẦM VÓC VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ NĂM 1954

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, một thắng lợi “lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu”, là một sự kiện mang tầm vóc vĩ đại và bài học lịch sử rất quan trọng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Đánh giá về ý nghĩa và tầm vóc của chiến thắng Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: Điện Biên Phủ là cột mốc bằng vàng trong lịch sử dân tộc, đánh dấu nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, khởi đầu quá trình phi thực dân hóa trên phạm vi toàn thế giới.
Chiến thắng vẻ vang của dân tộc Việt Nam đã đi vào lịch sử thế giới như một bản hùng ca, song những giá trị của thắng lợi trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc luôn còn đọng mãi với lịch sử của dân tộc Việt Nam ta qua các thế hệ.
Có được những thắng lợi đó trước hết là sự kế thừa truyền thống chống giặc ngoại xâm của cha ông ta và sự vận dụng sáng tạo về lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà quân sự thiên tài.
Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, với vũ khí thô sơ và tinh thần “cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược quân sự của thực dân Pháp. Quân ta càng đánh, càng mạnh, càng thắng, quân viễn chinh Pháp càng ngày càng lún sâu vào thế bị động, lúng túng.
Vùng giải phóng của ta được mở rộng, chính quyền dân chủ nhân dân được củng cố. Đến năm 1953, nhân dân và quân đội ta đã làm chủ trên chiến trường, tạo ra sự so sánh lực lượng có lợi cho ta.
Ngày 25-1-1954, các đơn vị bộ đội ta ở vị trí tập kết sẵn sàng nổ súng theo phương châm tác chiến “đánh nhanh, giải quyết nhanh”.
Nhưng nhận thấy địch đã tăng cường lực lượng phòng ngự vững chắc, Bộ Chỉ huy và Đảng ủy chiến dịch đã đưa ra quyết định đúng đắn: Giữ vững quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thay đổi phương châm tác chiến sang “đánh chắc, tiến chắc”.
Đây là quyết định đúng đắn nhưng ta cũng gặp không ít khó khăn. Đó là, thời gian tác chiến dài hơn, cách đánh cũng khác nên có những việc ta phải chuẩn bị lại từ đầu, nhất là việc tổ chức, bố trí hệ thống hoả lực chiến dịch.
Với địa hình hiểm trở, pháo của ta kéo vào tập trung tại trận địa đã khó khăn, nay thay đổi phương châm tác chiến lại phải kéo pháo phân tán ra các trận địa mới trên các điểm cao tạo thành vòng cung bao vây tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, để bắn trực tiếp vào các mục tiêu dưới lòng chảo càng khó khăn hơn. Với tinh thần quả cảm, không quản ngại gian khổ, hy sinh, quân và dân ta đã tìm mọi cách vượt qua thử thách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ là một trận quyết chiến chiến lược, sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ôtô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch; một trận tiêu diệt điển hình nhất, trực tiếp đưa đến việc buộc thực dân Pháp xâm lược phải ngồi vào bàn hội nghị ký Hiệp định Genève về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương.
Tầm vóc và giá trị lịch sử của chiến thắng Điện Biên Phủn được thể hiện nổi bật ở mấy bài học quí sau:
Trước hết, về sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn, sáng tạo, kiên quyết và tài giỏi của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nắm vững âm mưu, kế hoạch chiến lược của địch, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kịp thời đề ra phương châm kháng chiến: “Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt” nhằm phá khối chủ lực, cơ động chiến lược của địch ngay từ trong trứng nước.
Theo đó, quân và dân ta trên khắp các địa bàn, nhất là ở đồng bằng Bắc Bộ, chủ động đẩy mạnh các hoạt động tác chiến làm cho địch không những không thể thực hiện được kế hoạch đã vạch ra, mà còn lâm vào thế bị động đối phó.
Trước nguy cơ lực lượng cơ động chiến lược trên chiến trường Đông Dương bị xé lẻ, phân tán, Na-va vội điều lực lượng lớn lên Điện Biên Phủ xây dựng tập đoàn cứ điểm, được mệnh danh là “bất khả chiến bại” hòng lôi kéo, “nghiền nát” lực lượng chủ lực của ta.
Trung ương Đảng và Bác Hồ nhận định: Đây tuy là mưu đồ của địch, nhưng cũng là thời cơ cho ta tập trung binh lực, hỏa lực để tiêu diệt quân địch, kết thúc chiến tranh. Tác chiến trên địa bàn này, ta tuy có những khó khăn nhất định, nhưng có thuận lợi cơ bản, đó là: Phát huy được sở trường đánh địch ở địa hình rừng núi, địa bàn chiến dịch tiếp giáp vùng mới giải phóng.
Đối với địch, có bất lợi: Chưa kịp xây dựng, củng cố vững chắc công sự, trận địa, lại xa hậu phương, chỉ có thể tiếp tế bằng đường không; địa thế của “lòng chảo Điện Biên” lại thấp. Trong quá trình chuẩn bị, Bộ Tư lệnh Chiến dịch nhận thấy địch đã củng cố, xây dựng nơi đây thành tập đoàn cứ điểm mạnh nên ta không thể “đánh nhanh, giải quyết nhanh”.
Vì thế, Tư lệnh Chiến dịch đã kịp thời chuyển phương châm tác chiến sang “đánh chắc, tiến chắc”.
Chủ trương trên được Bộ Chính trị nhất trí, nhưng cũng là một quyết định rất khó khăn về mặt tư tưởng đối với bộ đội, nhất là trong điều kiện lực lượng ta đã áp sát mục tiêu tiến công lại phải dừng lại để rút ra chuẩn bị kỹ hơn về: Vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, thuốc men và cách đánh.
Xuất phát từ ý nghĩa, tầm quan trọng của trận quyết chiến chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn đồng chí Võ Nguyên Giáp trước khi lên đường đi Chiến dịch: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Đánh chắc thắng, không chắc thắng không đánh” (Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng tập Hồi ký, Nxb QĐND, H. 2006, tr. 900.).
Cuộc đấu trí, đấu lực cả trước và trong Chiến dịch với phần thắng thuộc về quân và dân ta đã chứng minh sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây chính là nhân tố quyết định tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả nước đánh thắng đội quân xâm lược nhà nghề của thực dân Pháp và buộc chúng phải ký Hiệp định Genève, lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương.
Hai là, Phát huy cao nhất sức mạnh của toàn dân cho trận quyết chiến chiến lược. Tính cả trước và trong Chiến dịch, có tới 62.000 dân công, thanh niên xung phong tham gia làm và sửa chữa hàng trăm kilômét đường, nhiều bến, cầu; vận chuyển hơn 25.000 tấn lương thực, thực phẩm, hàng nghìn tấn vũ khí trang bị, đạn dược tới mặt trận; hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ được cứu chữa, chăm sóc… trở thành nhân tố quan trọng đảm bảo thắng lợi.
Ngoài nhiệm vụ phục vụ, họ còn trực tiếp tham gia chiến đấu cùng các đơn vị quân đội. Đây là “cuộc ra quân lớn nhất” của cả nước kể từ đầu cuộc kháng chiến. Thực tiễn đã khẳng định: đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc của Đảng và sức mạnh to lớn của nhân dân là nhân tố quan trọng góp phần vào thắng lợi của chiến dịch.
Ba là, Sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế. Sau gần 5 năm bị cô lập, chiến đấu trong vòng vây, cuộc kháng chiến của nhân dân ta gặp không ít khó khăn về vật chất, vũ khí, súng đạn, thậm chí cả về đấu pháp với một đội quân nhà nghề được trang bị vũ khí hiện đại...
Để khắc phục tình trạng trên, Đảng ta kiên trì đường lối kháng chiến: Toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính; đồng thời, tích cực, chủ động tìm sự ủng hộ về vật chất và tinh thần từ bên ngoài, nhất là từ các nước XHCN và các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Bên cạnh đó, Đảng còn định ra chủ trương, chính sách đúng đắn để phát triển lực lượng vũ trang, chuẩn bị vật chất hậu cần, kỹ thuật cho trận đánh lớn, kết thúc chiến tranh.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhận được sự giúp đỡ về tinh thần và vật chất ngày càng lớn của bạn bè quốc tế, nổi bật là sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân Liên Xô, Trung Quốc (Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 thắng lợi và bài học, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 600: Vũ khí, đạn dược, vật chất hậu cần, kỹ thuật là 21.517 tấn; 24 khẩu sơn pháo 75mm, 24 khẩu lựu pháo 105mm, 76 khẩu pháo cao xạ 37mm và 12 khẩu pháo hỏa tiễn H6 và 715 xe. Chỉ tính riêng trong hai năm 1953, 1954, số lượng hàng hóa viện trợ đạt 9.292 tấn.).
Ngoài ra, các nước bạn còn giúp ta trong đào tạo cán bộ, huấn luyện chuyển loại các đơn vị pháo binh, pháo cao xạ....
Chiến thắng Điện Biên Phủ mang tầm vóc thời đại, góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hoà bình, tiến bộ của nhân loại. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ giáng một đòn chí mạng vào nền móng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đánh sập thành luỹ của chủ nghĩa thực dân cũ, báo hiệu sự thất bại chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa thực dân mới do đế quốc Mỹ cầm đầu.
Sau hơn 30 năm đổi mới, thế và lực của đất nước ta đã lớn mạnh, nhưng bên cạnh những thuận lợi cơ bản, cơ hội và thách thức vẫn đan xen, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chống phá Đảng, Nhà nước và sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta.
Tình hình đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải mài sắc tinh thần cảnh giác, phát huy cao độ nội lực; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng; giữ vững và không ngừng tăng cường đoàn kết quân dân, đoàn kết hữu nghị với nhân dân và quân đội các nước bạn truyền thống; tăng cường củng quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng, an ninh, xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế và đối ngoại. 
Chú trọng xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng trên các địa bàn chiến lược, tuyến biên giới, nâng cao đời sống nhân dân, xoá đói giảm nghèo, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Tổ chức lực lượng vũ trang hợp lý, đồng bộ, cân đối giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, các quân binh chủng phù hợp với yêu cầu tác chiến mới.
Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ trong tình hình mới.
Nguyễn Huy Hiệu

Thứ Ba, 7 tháng 5, 2019

CUỘC ĐẤU PHÁO KHÔNG CÂN SỨC TRÊN ĐỒI E1

Trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ “56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt…” chiến đấu và phục vụ chiến đấu dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù đã xuất hiện nhiều tấm gương dũng cảm, mưu trí “gan không núng, chí không mòn”; những tấm gương anh dũng hy sinh “dù bom đạn xương tan, thịt nát. Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh”….

CUỘC ĐẤU PHÁO KHÔNG CÂN SỨC TRÊN ĐỒI E1
Anh hùng LLVT nhân dân Phùng Văn Khầu tặng quà gia đình chính sách trong một lần lên thăm xã Mường Păng, huyện Điện Biên.
65 năm đã trôi qua, những người lính khi đó đang độ tuổi đôi mươi nay đều đã qua tuổi bát tuần. Sau chiến tranh, những người lính lần lượt ra quân và trở về với cuộc sống đời thường, nhưng trong tất cả họ vẫn luôn tâm niệm: Là Chiến sĩ Điện Biên, là Cựu chiến binh phải luôn luôn phát huy phẩm chất và truyền thống tốt đẹp của Bộ đội cụ Hồ; thực hiện tốt đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; gương mẫu học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác; tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở…
“Không ai muốn chiến tranh để trở thành Anh hùng, nhưng khi có chiến tranh, thì cả nước cùng bảo nhau cầm súng. Nhiều đồng đội của tôi đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường, tất cả để chúng ta có cuộc sống độc lập, tự do…” - Đại tá, Anh hùng LLVT (lực lượng vũ trang) Phùng Văn Khầu mở đầu câu chuyện khi tiếp chúng tôi.
Đã 65 năm trôi qua, người lính mưu trí, dũng cảm, một mình với khẩu sơn pháo đánh địch khi đó đang độ tuổi đôi mươi nay đã gần 90 tuổi, song những ký ức trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ - về 36 ngày đêm chiến đấu trên đồi E1 vẫn vẹn nguyên trong tâm trí Đại tá Phùng Văn Khầu, dân tộc Nùng, xã Đức Hùng, huyệnTrùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
Nhớ lại những ngày cuối năm 1946, theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ, được sự động viên khích lệ của cha, ông đã cùng với bao thanh niên khác trong bản rời quê hương Trùng Khánh đến thị xã Cao Bằng tìm gặp bộ đội cách mạng.
Sau khi đăng tuyển nhập ngũ, ông xin vào Bộ đội Pháo binh bởi một suy nghĩ đơn giản “bộ binh có súng nhỏ bắn một phát chỉ được một tên địch thôi, còn pháo binh bắn một phát nhưng diệt được nhiều tên địch, đất nước sẽ mau hết giặc và sớm được giải phóng”…
Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu, sau khi quân ta giành được thắng lợi đợt 1, ngày 18/3/1954, Đại đội Sơn pháo 755 của Đại tá Phùng Văn Khầu đang đóng quân tại đồn Vàng (Phú Thọ) được lệnh hành quân gấp lên tham gia Chiến dịch.
Như bao người lính khác, ông vui mừng hò reo vì có cơ hội được ra trận, sát cánh cùng đồng đội chiến đấu giải phóng quê hương, trái ngược hẳn cái cảm giác xốn xang, bứt rứt, đứng ngồi không yên mỗi khi nghe tin từ chiến trường báo về…
“Đại đội tôi có 3 khẩu đội (mỗi khẩu đội 9 người) được cấp 3 khẩu pháo 75 ly, mỗi khẩu nặng gần 500kg, tầm bắn xa nhất là 6km. Thông thường, để di chuyển được một khẩu pháo như thế, đơn vị phải tháo rời ra từng mảnh, chia cho 27 người khuân, nhưng do yêu cầu nhiệm vụ, khẩu đội của tôi phải gấp rút vào trận địa, tôi cùng 8 đồng đội đã vác nặng gấp 3 lần bình thường. Sau 6 ngày hành quân, đến tối 20-3, chúng tôi đã tiếp cận được đồi E1 và bắt đầu chuẩn bị công sự chiến đấu...” - ông Khầu nhớ lại.
Đồi E1, nơi chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt nằm ở phía Đông Bắc trung tâm Mường Thanh, cạnh đường 42, đường Tuần Giáo vào Điện Biên. Quân Pháp đặt đồi E1 là cứ điểm quan trọng trong cụm cứ điểm phòng ngự tuyến 2 sau cụm Him Lam. E1 nằm sát đường 42, từ Him Lam qua E1 xộc thẳng vào trung tâm Mường Thanh. E1 được quân Pháp xây dựng thành một cứ điểm rất mạnh trong phòng ngự không khác gì Him Lam, có hệ thống giao thông hào bao quanh nối dọc, ngang rất cơ động trong tác chiến.
Cứ khoảng 3m giao thông hào, trên mép hào có một hố đựng sẵn vài chục quả tạc đạn màu vàng, các ụ súng máy, hầm hào thiết bị vững chắc, nóc hầm lát những khúc gỗ to đường kính 20 - 40 cm, trên xếp những bao cát, đất rất dày, rất khó phá bằng đạn pháo. Từ E1 có thể quan sát, phát hiện khống chế mọi hoạt động tiếp cận của ta từ phía đường 42 vào và là lá chắn bảo vệ an toàn cho trận địa pháo và sân bay Mường Thanh của địch…
Chính vị trí quan trọng như vậy nên trận chiến đấu ở đồi E1 luôn trong tình huống “ngàn cân treo sợi tóc”, đã là người lính chiến đấu ở đây, chắc chắn ai cũng phải “bền gan, ngoan cường, mưu trí, dũng cảm”.
Theo Đại tá Phùng Văn Khầu, trận địa pháo của địch nằm bên cạnh sông Nậm Rốm, cách khẩu đội ông khoảng 250m. Đài quan sát bổ trợ của ta nằm trong tầm bắn của xe tăng địch cách đó chưa đầy 300m, cùng với phi pháo, chúng xới tung nhiều lần khiến chiến sĩ bị thương vong tưởng không trụ nổi.
Các trận địa cối và cả các trận địa của đại đội sơn pháo của ông cũng không nằm ngoài tầm bắn của tăng địch, luôn luôn trong tình thế hiểm nguyên ác liệt, sau nhiều lần bị bắn trúng, thương vong gần hết. Người đồng đội còn lại là Khẩu đội phó kiêm pháo thủ Lý Văn Pao cũng bị trúng đạn, mất đi bàn chân trái…
Cuối cùng, đại đội sơn pháo chỉ còn lại mỗi Khẩu đội trưởng kiêm pháo thủ Phùng Văn Khầu. Dù bị thương, ông vẫn cùng với đài quan sát kiên cường bám trụ chiến đấu đến cùng, quần nhau với địch.
Một trận đấu pháo diễn ra không cân sức, vô cùng ác liệt, nhưng bằng sự dũng cảm, mưu trí, khẩu đội sơn pháo của ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tiêu diệt hoàn toàn cụm hỏa lực, trận địa pháo của địch với 4 lô cốt, 5 khẩu 105 ly, 6 khẩu đại liên, một kho đạn và nhiều sinh lực địch, phục vụ chi viện đắc lực cho bộ binh ta tiến công vào trung tâm tập đoàn cứ điểm cho đến giờ toàn thắng, 17h ngày 07/5/1954 lịch sử…
“Mỗi lần thấy đồng đội nằm xuống, được đưa về tuyến sau, tôi càng thấy mình cần phải quyết tâm cao hơn, dồn hết tâm trí vào nòng pháo để bắn hạ từng mục tiêu địch. Sau khi anh Pao bị thương, không thể chiến đấu được, lúc đó chỉ còn lại mình tôi, tình thế cấp bách, tôi gắng sức một mình thao tác từ quan sát, ngắm mục tiêu, nạp đạn, giật cò…” - giọng ông Khầu đầy nhiệt huyết, sinh động khiến chúng tôi mường tượng, cảm nhận trận chiến khốc liệt đó diễn ra ngay trước mắt.
Ngay sau khi Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, Khẩu đội trưởng kiêm pháo thủ Phùng Văn Khầu cùng một số đồng chí đã vinh dự được đại diện cho lực lượng tham gia chiến dịch, lên chiến khu Việt Bắc báo công với Bác Hồ. Tại đây, pháo thủ Phùng Văn Khầu được Bác ôm hôn, tặng Huy hiệu Chiến sĩ Điện Biên. Ngày 31/8/1955, ông và một số đồng chí khác được gặp Bác Hồ lần thứ hai và vinh dự được tuyên dương danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân…
Vậy là đã 65 năm trôi qua nhưng ký ức về những ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt…, chiến đấu dưới mưa bom bão đạn của quân thù trong tâm trí người Anh hùng LLVT nhân dân, Đại tá Phùng Văn Khầu vẫn vẹn nguyên. Khóe mắt ông cay cay, ông cười vui trong khi những giọt nước mắt trực trào rồi lăn dài trên má, rồi ông bảo, không bao giờ quên được hình ảnh ngày chiến thắng 07/5/1954, khi cờ trắng, vải trắng của địch giơ cao trên đầu dọc khắp các chiến hào - “Tất cả chúng tôi cùng sung sướng hô vang: Chiến thắng! Chiến thắng rồi, Hồ Chủ tịch muôn năm!”…
Thảo Vy

Thứ Hai, 6 tháng 5, 2019

Phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên

Trong mọi giai đoạn của cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng việc nêu gương của cán bộ, đảng viên; coi đây là một trong những phương thức lãnh đạo quan trọng của Đảng. 

Phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”; “Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”; “Muốn cho quần chúng nghe lời mình, làm theo mình thì người đảng viên từ việc làm, lời nói cho đến cách ăn ở phải thế nào cho dân tin, dân phục, dân yêu”.

Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nội dung nêu gương của cán bộ, đảng viên được thể hiện trên ba mối quan hệ: Đối với mình, đối với người và đối với việc. 

Đối với mình, không được tự cao tự đại, tự mãn, mà phải cần, kiệm, liêm, chính; phải “Nhân, Trí, Dũng, Liêm”; bản thân mình phải làm gương trong công việc từ nhỏ đến lớn, thường xuyên học tập, rèn luyện, tự phê bình, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm của bản thân về mọi mặt để tiến bộ. 

Đối với người, phải chân thành, khiêm tốn, thật thà, đoàn kết, và có tình thương yêu, bao dung, độ lượng. Đối với người, trước hết và quan trọng nhất là đối với đồng chí, đồng sự, nhất là đối với cấp dưới và sau đó là đối với quần chúng nhân dân.

Đối với việc, phải tận tâm, tận lực, có trách nhiệm, gương mẫu phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; phải luôn giữ vững nguyên tắc “Dĩ công vi thượng”, phải “chí công vô tư”, phải biết hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích của Tổ quốc, nhân dân và của Đảng.

Quy định số 08-QĐ/TW, ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, yêu cầu cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương phải “gương mẫu thực hiện Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012, của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, chủ chốt các cấp”.

Thắng lợi của nhân dân ta trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước lâu dài, đầy khó khăn, gian khổ, hy sinh, biết bao cán bộ, đảng viên đã nêu cao tấm gương sáng ngời, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. 

Nhiều cán bộ, đảng viên đã xung phong đi đầu, sẵn sàng nhận mọi khó khăn, gian khổ, thiếu thốn, thậm chí là cả hy sinh xương máu của mình để thực hiện tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tinh thần nêu gương của cán bộ, đảng viên không chỉ trong thực hiện nhiệm vụ chiến đấu, mà còn được thể hiện cả trong cuộc sống hàng ngày, với tinh thần “nhường cơm, sẻ áo”, “dành khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn”. 

Chính vì vậy mà đội ngũ cán bộ, đảng viên đã thu hút, lôi kéo, động viên được quảng đại quần chúng theo mình, không chỉ đi tiên phong, mà còn là người nêu gương cho những người khác đi theo, thực hiện tốt mọi nhiệm vụ được giao, trong mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh, góp phần làm nên thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong Đại thắng mùa xuân năm 1975 lịch sử.

Trong quá trình đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện chủ trương, nghị quyết, quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; thực hiện Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07-6-2012 về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; và Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016 về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. 

Kết quả đã bước đầu tạo chuyển biến tích cực, góp phần siết chặt kỷ luật, kỷ cương; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng, đảng viên; kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực.

Tuy nhiên, nhận thức và thực hiện trách nhiệm nêu gương của một số cấp ủy, tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên còn có những hạn chế, bất cập, kết quả chưa được như mong muốn. Đội ngũ cán bộ còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. 

Một số tổ chức Đảng, nhất là ở cấp cơ sở và không ít cán bộ, đảng viên phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong công tác chưa ngang tầm với yêu cầu, đòi hỏi của tình hình mới. 

Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược thiếu gương mẫu trong học tập, tu dưỡng, rèn luyện, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, thậm chí vi phạm nghiêm trọng kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, gây dư luận xấu trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta bước sang một giai đoạn mới với nhiều thời cơ, thuận lợi và không ít nguy cơ, khó khăn, thách thức đan xen. 

Trong khi đó, các thế lực thù địch liên tục chống phá ta về mọi mặt, đặc biệt là việc tấn công trên mặt trận tư tưởng, chính trị bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt nhằm vào đội ngũ cán bộ, đảng viên, trọng tâm là bôi nhọ, xuyên tạc, thổi phồng khuyết điểm của cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là cán bộ cấp cao để hạ thấp uy tín, chia rẽ, làm suy giảm niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta.

Vì vậy, hơn lúc nào hết phải đẩy mạnh phương thức nêu gương, đặc biệt là phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Việc phát huy trách nhiệm nêu gương của các đồng chí cán bộ cấp cao của Đảng và Nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng, có sức mạnh to lớn về tinh thần, có sức lan tỏa mạnh mẽ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; tạo động lực, niềm tin vững chắc cho quần chúng tự nguyện, tự giác làm theo để thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng, góp phần xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.

Nguyễn Vĩnh Thắng