KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, THỜI ĐẠI CỦA CHIẾN THẮNG 30 THÁNG 4

Năm nay, trong những ngày hướng đến kỷ niệm Chiến thắng lịch sử vĩ đại 30/4/1975, nhân dân ta đón mừng sự kiện này với nhiều niềm vui mới. Theo báo cáo của Chính phủ, kinh tế Việt Nam năm 2018 khởi sắc trên cả ba khu vực sản xuất, cung - cầu của nền kinh tế cùng song hành phát triển.

NHẬN DIỆN VÀ NGĂN NGỪA THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG LÒNG YÊU NƯỚC ĐỂ KÍCH ĐỘNG NGƯỜI DÂN XUỐNG ĐƯỜNG BIỂU TÌNH, GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Người yêu nước chân chính là người biết sử dụng pháp luật, đạo đức, truyền thống tốt đẹp để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, đồng thời phải biết tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Nhận diện được phương thức, thủ đoạn lợi dụng lòng yêu nước để kích động nhân dân làm việc xấu chính là nhằm đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp, đồng thời tránh được sự lợi dụng đó để gây ra rối loạn xã hội, phức tạp tình hình.

Thông cáo báo chí kỳ họp 32 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Từ ngày 03 đến 06/12/2018 tại Hà Nội, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã họp kỳ 32. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương chủ trì kỳ họp.

UBKTTW kết luận vụ AVG: Sai phạm của ông Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn là rất nghiêm trọng

UBKTTW vừa họp kỳ 26 kết luận vụ AVG có những vi phạm của Ban cán sự đảng Bộ TT-TT, ông Nguyễn Bắc Son, ông Trương Minh Tuấn, ông Phạm Đình Trọng, của Ban Thường vụ Đảng ủy Mobifone và các ông Lê Nam Trà, Cao Duy Hải là rất nghiêm trọng.

Bốn kỳ vọng thay đổi lớn về công tác cán bộ sau 4 ngày Hội nghị T.Ư 7

Sau 4 ngày làm việc, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng được dư luận đặc biệt quan tâm, trong đó có công tác cán bộ, bởi đây là vấn đề “nóng” trong tình hình hiện nay.

Hiển thị các bài đăng có nhãn điện biên phủ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn điện biên phủ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 22 tháng 7, 2020

NGƯỜI LÍNH NGOẠI QUỐC VINH DỰ ĐƯỢC MANG HỌ BÁC HỒ


Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đã có biết bao anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh vì độc lập, tự do cho dân tộc; trong đó có nhiều “anh bộ đội cụ Hồ” mang quốc tịch nước ngoài như Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân Nguyễn Văn Lập (Kostas Sarantidis, người Hy Lạp); Phan Lăng (Frans de Boel, người Bỉ); Hoàng Linh (Ito Matsumo, người Nhật)… Và một trong những “anh bộ đội cụ Hồ” mà chúng ta ít nhiều được biết đến, đó là người lính Ba Lan Stefan Kubiak. Stefan đã từ bỏ hàng ngũ quân đội Pháp để chiến đấu trong hàng quân của Việt Minh, chiến đấu như một người Cộng Sản.

NGƯỜI LÍNH NGOẠI QUỐC VINH DỰ ĐƯỢC MANG HỌ BÁC HỒ

Sinh ra ở thành phố Lodz (Ba Lan), Stefan lớn lên và bị cuốn vào chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Khi chiến tranh kết thúc, ông bị quân Pháp ép vào quân đội lê dương và đưa sang Việt Nam. Những người lính lê dương thường bị nhồi nhét vào đầu các ý nghĩ rằng “Việt Minh là những kẻ man rợ, tìm cách chống lại sự khai sáng văn minh của Pháp quốc”. Thế nhưng, thời gian trong quân đội Pháp, Stefan đã nhận ra rằng mình đang cố gắng tiêu diệt những con người chính nghĩa đứng lên bảo vệ Tổ quốc trước sự xâm lăng của ngoại bang; đồng thời khâm phục tinh thần chiến đấu gan dạ, quyết hy sinh vì Tổ quốc của người lính Việt Minh. Tình cảm và lý trí đã thôi thúc Stefan Kubiak thực hiện một cuộc đào ngũ nguy hiểm để được đứng vào hàng ngũ của Việt Minh, chiến đấu vì chính nghĩa.
Ông Nguyễn Xuân Tính (cựu chiến binh Điện Biên Phủ, đồng đội với Stefan) kể lại: Sau nhiều lần xác minh và thử thách, Stefan được phân công vào đơn vị pháo binh vì có kiến thức quân sự, mưu trí cùng với lòng dũng cảm, gan dạ, luôn ở tuyến đầu trong mỗi trận đánh, ông được những người lính du kích Việt Nam yêu mến đặt tên Việt Nam - anh Toán. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ ông cùng đơn vị pháo binh đã lập nhiều chiến công. Với ngoại hình một lính Tây, Stefan đã khoác lên mình bộ quân phục sĩ quan Pháp đột nhập vào lô cốt khó đánh nhất của địch, mở đường máu cho những chiến sĩ khác xông lên đánh chiếm lô cốt.
Trước những đóng góp quan trọng, tấm lòng sẵn sàng hy sinh của người lính ngoại quốc trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Stefan đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi, nhận làm con nuôi và cho phép ông mang họ của Người. Cái tên Việt Nam - Hồ Chí Toán gắn bó với ông từ đó. Ngày 28/11/1963, Hồ Chí Toán từ trần khi mang quân hàm đại úy; với những cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, đại úy Hồ Chí Toán được Đảng, Nhà nước trao tặng: 02 huân chương chiến công hạng Ba, 01 Huân chương chiến thắng hạng Ba, 01 huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng Ba.
Qua 2 cuộc chiến tranh, hình ảnh đẹp và huyền diệu của một người ngoại quốc với lòng quả cảm, tình yêu và tinh thần chiến đấu quên mình, lập nhiều chiến công cho một đất nước xa lạ được Stefan xem là quê hương thứ 2 của mình. Với ông Stefan - Hồ Chí Toán đã trở thành biểu tượng cho lòng yêu chuộng hòa bình, khát khao cống hiến và chiến đấu vì chính nghĩa, vì độc lập của một dân tộc yêu chuộng hòa bình.
Dang Toan

Thứ Bảy, 24 tháng 8, 2019

MÃI LÀ NGƯỜI ANH CẢ CỦA QUÂN ĐỘI, VỊ TƯỚNG CỦA LÒNG DÂN

Đại tướng Võ Nguyên Giáp - người cộng sản kiên trung, mẫu mực, người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh - đã về cõi vĩnh hằng, nhưng với bộ đội, dân quân tự vệ và nhân dân Việt Nam cũng như nhiều bạn bè trên thế giới, kể cả những người từng một thời là đối thủ ở bên kia chiến tuyến, Võ Nguyên Giáp - “Anh Văn” vẫn luôn được nhắc tới với sự trân trọng đặc biệt.

MÃI LÀ NGƯỜI ANH CẢ CỦA QUÂN ĐỘI, VỊ TƯỚNG CỦA LÒNG DÂN

Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp không chỉ là một danh tướng, một “nhà chính trị đi trước nhà quân sự”, mà còn là một “cây đại thụ rợp bóng nhân văn”.
Ngày 22-12-1949, nhân kỷ niệm 5 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Trong thư, Người nêu rõ: “Quân đội ta quen gọi Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp là Anh Cả. Cách gọi thân ái ấy rất đúng với tinh thần và lịch sử của Quân đội ta…”.
Năm 2004, nhân kỷ niệm 50 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, khi được nhà báo Pháp D.Ba-ri phỏng vấn về chiến lược của Việt Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trả lời: “Chiến lược của chúng tôi là chiến lược hòa bình. Tôi là vị tướng của hòa bình”. Còn Tướng Bi-gia, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Pháp, trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí vào cuối tháng 4-2004, đã thốt lên rằng: “Xin ngả mũ chào bái phục tướng Giáp!”.
Là một học trò xuất sắc và gần gũi của lãnh tụ Hồ Chí Minh, lại xuất thân từ một nhà giáo dạy sử, Võ Nguyên Giáp là một vị tướng hiểu rõ và thấm nhuần sâu sắc tư tưởng “trọng dân”, “nước lấy dân làm gốc” của các bậc tiền nhân. Yếu tố nhân dân luôn bám rễ sâu trong tư duy quân sự của ông. Ngay trong buổi đầu thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, Võ Nguyên Giáp đã trực tiếp soạn thảo “Mười lời thề” cho đội, trong đó nhiều nội dung đều đề cập đến quan hệ quân-dân.
Là một người am hiểu lịch sử dân tộc, Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp hiểu rất rõ, trong dặm dài lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, các triều đại phong kiến Việt Nam đã không ít lần để mất nước, mà một trong những căn nguyên chủ yếu là đã để mất dân, mất làng xóm, xã tắc. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp thường lưu ý và nhắc nhở các mặt trận, các địa phương, thà tạm thời để mất đất, chứ nhất quyết không để mất dân. Với ông, yếu tố chính trị quần chúng là chỗ dựa không thể thiếu trong bất kỳ hoạt động quân sự nào. Trên cương vị Tổng Tư lệnh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có công lớn cùng tập thể Quân ủy Trung ương đưa quan hệ quân - dân trở thành một trong những nét đẹp truyền thống quý báu của Quân đội nhân dân Việt Nam, cũng như trong việc tạo dựng hình ảnh đẹp của Bộ đội Cụ Hồ trong lòng nhân dân.
Võ Nguyên Giáp luôn ghi nhớ, noi gương và thực hiện lời căn dặn của lãnh tụ Hồ Chí Minh: Làm cách mạng là phải “dĩ công vi thượng” (tức là phải đặt lợi ích chung lên trên hết); đồng thời, ông luôn đề cao vai trò của tập thể, phục tùng tổ chức. Điển hình, tại Mặt trận Điện Biên Phủ năm 1954, tuy là người chỉ huy cao nhất được Bác Hồ và Bộ Chính trị trao toàn quyền quyết định các vấn đề, nhưng trên cương vị Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy mặt trận, trước khi quyết định những vấn đề hệ trọng, bao giờ Đại tướng cũng đưa ra thảo luận ở tập thể Đảng ủy, Bộ chỉ huy chiến dịch, tham khảo ý kiến của Đoàn cố vấn, nhằm tạo sự đồng thuận, thống nhất cao. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, quyết định thay đổi phương châm tác chiến, từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp vừa thể hiện tư duy quân sự sắc sảo, bản lĩnh của người cầm quân, đồng thời cũng thể hiện việc quán triệt sâu sắc, chấp hành tuyệt đối ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “đánh chắc thắng”.
Thể hiện tính nhân văn, nhân nghĩa của một vị tướng “dĩ công vi thượng”, ông luôn biết đề cao vai trò của tập thể, hết sức tôn trọng ý kiến của tập thể, vì lợi ích chung và luôn tính toán kỹ đến sự hy sinh xương máu của bộ đội. Đúng 30 năm sau sự kiện này, vào tháng 5-1984, trong buổi gặp mặt truyền thống, một số cựu cán bộ chỉ huy cho rằng: “Hồi đó mà cứ đánh theo phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh”, không kịp thời và kiên quyết thay đổi phương châm tác chiến như Đại tướng đã làm, thì có lẽ chúng mình đã không còn có dịp hội ngộ như hôm nay”.
Võ Nguyên Giáp là một vị tướng thương yêu bộ đội hết mực, dù người đó giữ chức vụ gì, quân hàm cao hay thấp. Với cán bộ, chiến sĩ dưới quyền, ông như người cha, người anh, người đồng chí thân thiết và gần gũi. Trước nhiều trận đánh, Đại tướng đều viết thư động viên, nhắc nhở và thăm hỏi tình hình sức khỏe của bộ đội, dân công, thanh niên xung phong… Trong điều kiện cực kỳ khó khăn, thiếu thốn tại chiến trường, Đại tướng vẫn thường xuyên quan tâm, nhắc nhở cơ quan hậu cần, lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị chăm lo sức khỏe, bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội, hết lòng thương yêu bộ đội… Viên tướng Na-va, Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, khi nhận xét về “quan hệ cán-binh” của Việt Minh ở Mặt trận Điện Biên Phủ từng phải thốt lên: “Đã bao lần tôi phát ghen với tướng Giáp!”.
Nhà cầm quân nào cũng khát khao chiến thắng, nhất là trong các trận đánh, chiến dịch có tầm quan trọng đặc biệt. Song với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, không phải lúc nào cũng giành chiến thắng bằng mọi giá, mà chiến thắng đó phải luôn đi kèm với việc giảm đến mức thấp nhất hy sinh xương máu của bộ đội. Với Đại tướng, quý trọng sinh mệnh của cán bộ và chiến sĩ, suy cho cùng cũng là quý trọng sinh mệnh của người dân. Thượng tướng Trần Văn Trà từng nói: “Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một vị Tổng Tư lệnh biết đau với từng vết thương của mỗi người lính, biết tiếc từng giọt máu của mỗi chiến binh!”. Ngược dòng lịch sử, tại cuộc họp kiểm điểm phê bình và tự phê bình trong đợt 2 của Chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại tướng đã thẳng thắn, nghiêm khắc phê bình, đồng thời truy vấn một số cán bộ chỉ huy: “Các đồng chí có xót xa không, khi bao nhiêu đồng chí của mình ngã xuống mà trận đánh không thành công do thiếu sót của lãnh đạo và chỉ huy?”. Nói xong, ông lấy khăn lau nước mắt. Lời phê bình nghiêm khắc nhưng chân thành, thắm đượm tình cán - binh của vị chỉ huy cao nhất làm cho những cán bộ có mặt thực sự cảm thấy thấm thía, nhận thức sâu sắc hơn trách nhiệm to lớn của mình, nhất là phải làm thế nào để giảm thấp nhất hy sinh xương máu của bộ đội.
Đối với kẻ địch, thấu triệt tinh thần “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo” của các bậc tiền nhân, Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ là một vị tướng biết đánh thắng địch bằng quân sự, mà còn biết thắng địch bằng nhân nghĩa, biết khoan dung đối với kẻ địch đã đầu hàng. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người từng một thời đứng bên kia chiến tuyến, từ những tướng lĩnh của Pháp đến những người lính Âu - Phi... đều dành cho Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp sự kính trọng và khâm phục đặc biệt. Tư tưởng nhân nghĩa được kết tinh từ truyền thống nhân văn trong chống giặc ngoại xâm của cha ông trên tinh thần “không vì tư thù, tư oán” được Võ Nguyên Giáp kế thừa và phát triển lên một tầm cao mới. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, sau trận mở màn chiến dịch, tiến công cụm cứ điểm Him Lam của Đại đoàn 312, thương vong của địch rất lớn, tử thương la liệt khắp trận địa. Theo đề nghị của Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ thị cho ông Mạc Ninh thảo ngay một bức thư chuyển cho Bộ chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ đề nghị cho người ra Him Lam nhận tử thương. Ngay sau ngày chiến thắng, trên cánh đồng Mường Thanh và dọc theo bờ sông Nậm Rốm, Đại tướng cùng Bộ chỉ huy chiến dịch đã cho dựng hàng chục chiếc lều từ vải dù để cứu chữa cho tù binh, hàng binh bị thương. Một nữ tù binh sau khi được phẫu thuật cứu sống kịp thời đã thốt lên: “Cha mẹ tôi đã sinh ra tôi, nhưng chính nhân dân và quân đội Việt Nam đã thực sự cứu tôi sống lại”.
Với chính mình, cái “tôi” trong con người Võ Nguyên Giáp là cái tôi “dĩ công vi thượng”. Ông là người nghiêm khắc, nhưng khiêm tốn, bình dị, bao dung và độ lượng. Cho dù trên cương vị nào, dường như ít khi thấy Đại tướng Võ Nguyên Giáp cáu gắt, to tiếng với cấp dưới. Trong cuộc sống, Đại tướng thường nói về cái tốt, cái đúng của đồng chí, đồng đội, mà ít khi thấy ông thanh minh bất cứ một vấn đề nào thuộc về bản thân mình. Khi đề cập đến chiến thắng của các chiến dịch, thắng lợi của hai cuộc kháng chiến, bao giờ và trước hết Đại tướng cũng nói đến vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy; nhắc đến công lao, cống hiến của đồng đội, đồng chí và đồng bào cả nước…
Có lẽ, ngay từ khi dấn thân vào đời binh nghiệp, nhà giáo Võ Nguyên Giáp không hề nghĩ rằng mình sẽ “làm tướng”, cho dù năm 1948 ông đã được phong quân hàm Đại tướng. Suốt chặng đường hoạt động cách mạng, trong đó hơn một phần ba thế kỷ trực tiếp cầm quân, Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp luôn hết lòng vì công việc, tận tụy hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ; luôn có tấm lòng tôn trọng, yêu thương mọi người. Cũng chính vì vậy, mặc dù Đại tướng đã mãi đi xa, nhưng trong trái tim mọi người, ông vẫn là bất tử.
Thời nào cũng vậy, phấn đấu để được “làm tướng” đã khó, giữ được đức NHÂN trong đạo làm tướng, như Bác Hồ đã dạy, càng khó hơn. Vậy nhưng, Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã làm được điều đó. Chất nhân văn trong con người Đại tướng cũng chính là hiện thân của tư tưởng nhân nghĩa, nhân văn trong văn hóa giữ nước của dân tộc Việt Nam được tích tụ, bồi đắp qua hàng nghìn năm lịch sử và được tỏa sáng, phát triển lên tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh./.
PGS, TS TRẦN NGỌC LONG
Nguyên Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam

Thứ Tư, 8 tháng 5, 2019

TẦM VÓC VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ NĂM 1954

Đã 65 năm trôi qua, chiến thắng trong trận quyết chiến chiến lược tại Điện Biên Phủ (ngày 07/5/1954) là thắng lợi quyết định, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp của quân và dân ta.

TẦM VÓC VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ NĂM 1954

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, một thắng lợi “lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu”, là một sự kiện mang tầm vóc vĩ đại và bài học lịch sử rất quan trọng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Đánh giá về ý nghĩa và tầm vóc của chiến thắng Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: Điện Biên Phủ là cột mốc bằng vàng trong lịch sử dân tộc, đánh dấu nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, khởi đầu quá trình phi thực dân hóa trên phạm vi toàn thế giới.
Chiến thắng vẻ vang của dân tộc Việt Nam đã đi vào lịch sử thế giới như một bản hùng ca, song những giá trị của thắng lợi trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc luôn còn đọng mãi với lịch sử của dân tộc Việt Nam ta qua các thế hệ.
Có được những thắng lợi đó trước hết là sự kế thừa truyền thống chống giặc ngoại xâm của cha ông ta và sự vận dụng sáng tạo về lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà quân sự thiên tài.
Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, với vũ khí thô sơ và tinh thần “cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược quân sự của thực dân Pháp. Quân ta càng đánh, càng mạnh, càng thắng, quân viễn chinh Pháp càng ngày càng lún sâu vào thế bị động, lúng túng.
Vùng giải phóng của ta được mở rộng, chính quyền dân chủ nhân dân được củng cố. Đến năm 1953, nhân dân và quân đội ta đã làm chủ trên chiến trường, tạo ra sự so sánh lực lượng có lợi cho ta.
Ngày 25-1-1954, các đơn vị bộ đội ta ở vị trí tập kết sẵn sàng nổ súng theo phương châm tác chiến “đánh nhanh, giải quyết nhanh”.
Nhưng nhận thấy địch đã tăng cường lực lượng phòng ngự vững chắc, Bộ Chỉ huy và Đảng ủy chiến dịch đã đưa ra quyết định đúng đắn: Giữ vững quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thay đổi phương châm tác chiến sang “đánh chắc, tiến chắc”.
Đây là quyết định đúng đắn nhưng ta cũng gặp không ít khó khăn. Đó là, thời gian tác chiến dài hơn, cách đánh cũng khác nên có những việc ta phải chuẩn bị lại từ đầu, nhất là việc tổ chức, bố trí hệ thống hoả lực chiến dịch.
Với địa hình hiểm trở, pháo của ta kéo vào tập trung tại trận địa đã khó khăn, nay thay đổi phương châm tác chiến lại phải kéo pháo phân tán ra các trận địa mới trên các điểm cao tạo thành vòng cung bao vây tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, để bắn trực tiếp vào các mục tiêu dưới lòng chảo càng khó khăn hơn. Với tinh thần quả cảm, không quản ngại gian khổ, hy sinh, quân và dân ta đã tìm mọi cách vượt qua thử thách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ là một trận quyết chiến chiến lược, sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ôtô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch; một trận tiêu diệt điển hình nhất, trực tiếp đưa đến việc buộc thực dân Pháp xâm lược phải ngồi vào bàn hội nghị ký Hiệp định Genève về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương.
Tầm vóc và giá trị lịch sử của chiến thắng Điện Biên Phủn được thể hiện nổi bật ở mấy bài học quí sau:
Trước hết, về sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn, sáng tạo, kiên quyết và tài giỏi của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nắm vững âm mưu, kế hoạch chiến lược của địch, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kịp thời đề ra phương châm kháng chiến: “Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt” nhằm phá khối chủ lực, cơ động chiến lược của địch ngay từ trong trứng nước.
Theo đó, quân và dân ta trên khắp các địa bàn, nhất là ở đồng bằng Bắc Bộ, chủ động đẩy mạnh các hoạt động tác chiến làm cho địch không những không thể thực hiện được kế hoạch đã vạch ra, mà còn lâm vào thế bị động đối phó.
Trước nguy cơ lực lượng cơ động chiến lược trên chiến trường Đông Dương bị xé lẻ, phân tán, Na-va vội điều lực lượng lớn lên Điện Biên Phủ xây dựng tập đoàn cứ điểm, được mệnh danh là “bất khả chiến bại” hòng lôi kéo, “nghiền nát” lực lượng chủ lực của ta.
Trung ương Đảng và Bác Hồ nhận định: Đây tuy là mưu đồ của địch, nhưng cũng là thời cơ cho ta tập trung binh lực, hỏa lực để tiêu diệt quân địch, kết thúc chiến tranh. Tác chiến trên địa bàn này, ta tuy có những khó khăn nhất định, nhưng có thuận lợi cơ bản, đó là: Phát huy được sở trường đánh địch ở địa hình rừng núi, địa bàn chiến dịch tiếp giáp vùng mới giải phóng.
Đối với địch, có bất lợi: Chưa kịp xây dựng, củng cố vững chắc công sự, trận địa, lại xa hậu phương, chỉ có thể tiếp tế bằng đường không; địa thế của “lòng chảo Điện Biên” lại thấp. Trong quá trình chuẩn bị, Bộ Tư lệnh Chiến dịch nhận thấy địch đã củng cố, xây dựng nơi đây thành tập đoàn cứ điểm mạnh nên ta không thể “đánh nhanh, giải quyết nhanh”.
Vì thế, Tư lệnh Chiến dịch đã kịp thời chuyển phương châm tác chiến sang “đánh chắc, tiến chắc”.
Chủ trương trên được Bộ Chính trị nhất trí, nhưng cũng là một quyết định rất khó khăn về mặt tư tưởng đối với bộ đội, nhất là trong điều kiện lực lượng ta đã áp sát mục tiêu tiến công lại phải dừng lại để rút ra chuẩn bị kỹ hơn về: Vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, thuốc men và cách đánh.
Xuất phát từ ý nghĩa, tầm quan trọng của trận quyết chiến chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn đồng chí Võ Nguyên Giáp trước khi lên đường đi Chiến dịch: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Đánh chắc thắng, không chắc thắng không đánh” (Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng tập Hồi ký, Nxb QĐND, H. 2006, tr. 900.).
Cuộc đấu trí, đấu lực cả trước và trong Chiến dịch với phần thắng thuộc về quân và dân ta đã chứng minh sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây chính là nhân tố quyết định tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả nước đánh thắng đội quân xâm lược nhà nghề của thực dân Pháp và buộc chúng phải ký Hiệp định Genève, lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương.
Hai là, Phát huy cao nhất sức mạnh của toàn dân cho trận quyết chiến chiến lược. Tính cả trước và trong Chiến dịch, có tới 62.000 dân công, thanh niên xung phong tham gia làm và sửa chữa hàng trăm kilômét đường, nhiều bến, cầu; vận chuyển hơn 25.000 tấn lương thực, thực phẩm, hàng nghìn tấn vũ khí trang bị, đạn dược tới mặt trận; hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ được cứu chữa, chăm sóc… trở thành nhân tố quan trọng đảm bảo thắng lợi.
Ngoài nhiệm vụ phục vụ, họ còn trực tiếp tham gia chiến đấu cùng các đơn vị quân đội. Đây là “cuộc ra quân lớn nhất” của cả nước kể từ đầu cuộc kháng chiến. Thực tiễn đã khẳng định: đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc của Đảng và sức mạnh to lớn của nhân dân là nhân tố quan trọng góp phần vào thắng lợi của chiến dịch.
Ba là, Sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế. Sau gần 5 năm bị cô lập, chiến đấu trong vòng vây, cuộc kháng chiến của nhân dân ta gặp không ít khó khăn về vật chất, vũ khí, súng đạn, thậm chí cả về đấu pháp với một đội quân nhà nghề được trang bị vũ khí hiện đại...
Để khắc phục tình trạng trên, Đảng ta kiên trì đường lối kháng chiến: Toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính; đồng thời, tích cực, chủ động tìm sự ủng hộ về vật chất và tinh thần từ bên ngoài, nhất là từ các nước XHCN và các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Bên cạnh đó, Đảng còn định ra chủ trương, chính sách đúng đắn để phát triển lực lượng vũ trang, chuẩn bị vật chất hậu cần, kỹ thuật cho trận đánh lớn, kết thúc chiến tranh.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhận được sự giúp đỡ về tinh thần và vật chất ngày càng lớn của bạn bè quốc tế, nổi bật là sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân Liên Xô, Trung Quốc (Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 thắng lợi và bài học, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 600: Vũ khí, đạn dược, vật chất hậu cần, kỹ thuật là 21.517 tấn; 24 khẩu sơn pháo 75mm, 24 khẩu lựu pháo 105mm, 76 khẩu pháo cao xạ 37mm và 12 khẩu pháo hỏa tiễn H6 và 715 xe. Chỉ tính riêng trong hai năm 1953, 1954, số lượng hàng hóa viện trợ đạt 9.292 tấn.).
Ngoài ra, các nước bạn còn giúp ta trong đào tạo cán bộ, huấn luyện chuyển loại các đơn vị pháo binh, pháo cao xạ....
Chiến thắng Điện Biên Phủ mang tầm vóc thời đại, góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hoà bình, tiến bộ của nhân loại. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ giáng một đòn chí mạng vào nền móng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đánh sập thành luỹ của chủ nghĩa thực dân cũ, báo hiệu sự thất bại chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa thực dân mới do đế quốc Mỹ cầm đầu.
Sau hơn 30 năm đổi mới, thế và lực của đất nước ta đã lớn mạnh, nhưng bên cạnh những thuận lợi cơ bản, cơ hội và thách thức vẫn đan xen, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chống phá Đảng, Nhà nước và sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta.
Tình hình đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải mài sắc tinh thần cảnh giác, phát huy cao độ nội lực; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng; giữ vững và không ngừng tăng cường đoàn kết quân dân, đoàn kết hữu nghị với nhân dân và quân đội các nước bạn truyền thống; tăng cường củng quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng, an ninh, xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế và đối ngoại. 
Chú trọng xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng trên các địa bàn chiến lược, tuyến biên giới, nâng cao đời sống nhân dân, xoá đói giảm nghèo, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Tổ chức lực lượng vũ trang hợp lý, đồng bộ, cân đối giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, các quân binh chủng phù hợp với yêu cầu tác chiến mới.
Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ trong tình hình mới.
Nguyễn Huy Hiệu

Thứ Sáu, 3 tháng 5, 2019

MỘT QUYẾT ĐỊNH MANG TÍNH LỊCH SỬ CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP

Đó là quyết định hoãn cuộc tấn công vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, xây dựng các phương án tác chiến mới, kéo pháo ra khỏi trận địa, lui về địa điểm tập kết, chuẩn bị kỹ lưỡng hơn trước giờ nổ súng.

MỘT QUYẾT ĐỊNH MANG TÍNH LỊCH SỬ CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng các cán bộ chỉ huy họp bàn kế hoạch tác chiến trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Theo như kế hoạch cũ, ta sẽ tấn công Điện Biên Phủ vào lúc 17 giờ ngày 25/01/1954. Tuy nhiên gần ngày nổ súng, một chiến sĩ của đại đoàn 312 bị địch bắt. Bộ phận thông tin kỹ thuật của ta nghe địch thông báo cho nhau qua điện đài về ngày giờ tiến công của bộ đội ta. Đây là diễn biến đầu tiên nằm ngoài dự kiến, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định hoãn lại thời gian nổ súng 24 tiếng để đánh giá lại tình hình. Là người giữ trọng trách chỉ huy chiến dịch Đại tướng Võ Nguyên Giáp không khỏi có những băn khoăn trăn trở, Đại tướng nhớ lại lời dặn của Hồ Chủ tịch trước lúc lên đường: “Chỉ được thắng không được bại, vì bại thì hết vốn”. Sau khi đánh giá lại tình hình, Đại tướng nhận thấy sự lạc quan tinh thần của bộ đội ta là rất tốt nhưng lại không đúng với thực tế của chiến trường. Nhiều người cho rằng sự xuất hiện lần đầu của lựu pháo và cao xạ sẽ làm cho quân địch choáng váng, nhưng chúng ta chỉ có vài nghìn viên. Đặc biệt, mọi người đều tin vào khí thế của bộ đội khi xuất quân, tin vào sức mạnh tinh thần. Nhưng sức mạnh tinh thần cũng chỉ có giới hạn. Không phải chỉ với sức mạnh tinh thần cao mà lúc nào cũng chiến thắng quân địch! Chúng ta cũng không thể giành chiến thắng với bất kể giá nào, vì phải giữ gìn vốn liếng cho cuộc kháng chiến lâu dài. Trong khí đó tình hình địch đã thay đổi nhiều. Chúng đã củng cố công sự phòng ngự, không còn là trận địa dã chiến. Bộ đội ta sẽ phải tiến hành một trận công kiên vào một tập đoàn cứ điểm phòng ngự vững chắc chưa từng có. Phân tích điểm mạnh của tập đoàn cứ điểm, Đại tướng nhận định ba khó khăn khi bộ đội ta tấn công: thứ nhất, bộ đội chủ lực ta đến nay chỉ tiêu diệt cao nhất là tiểu đoàn địch tăng cường, có công sự vững chắc ở Nghĩa Lộ. Ở Nà Sản, chúng ta mới đánh vào vị trí tiểu đoàn, dưới tiểu đoàn, công sự dã chiến nằm trong tập đoàn cứ điểm, vẫn có những trận không thành công, bộ đội thương vong nhiều; thứ hai, trận này tuy ta không có máy bay, xe tăng, nhưng đánh hiệp đồng binh chủng bộ binh, pháo binh với qui mô lớn lần đầu, mà lại chưa qua diễn tập; thứ ba, bộ đội ta từ trước tới nay mới chỉ quen tác chiến ban đêm, ở những địa hình dễ ẩn náu. Chủ lực ta chưa có kinh nghiệm công kiên ban ngày trên trận địa bằng phẳng, với một kẻ địch có ưu thế về máy bay, pháo binh và xe tăng. Trận đánh sẽ diễn ra trên một cánh đồng dài 15km, rộng 6-7km. Vấn đề này phải giải quyết nhanh bởi khi đó các đơn vị pháo binh đã vào vị trí, các đại đoàn đều có mặt ở tuyến xuất phát xung phong.
Nhận thấy những điểm yếu và khó khăn trên, Đại tướng đã có một quyết định sáng suốt và kịp thời là hoãn trận đánh, cho các đơn vị rút khỏi trận địa để nghiên cứu cách đánh khác dù bộ đội có thắc mắc. Phải chuyển từ phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Thời gian chuẩn bị sẽ kéo dài. Ngoài công tác chuẩn bị đánh địch ở Điện Biên Phủ, bộ đội ta cần có những hoạt động tạo nên bất ngờ mới cho địch. Sẽ điều ngay một cánh quân sang Thượng Lào thu hút quân địch về hướng này, có thể quét sạch hành lang Điện Biên Phủ - Luông Pha băng chúng mới lập ở lưu vực sông Nậm Hu và yêu cầu Liên khu V triển khai nhanh chiến dịch Tây Nguyên. Để triển khai nhanh các kế hoạch trên Đại tướng đã triệu tập cuộc họp Đảng ủy mặt trận vào ngày 26/01/1954. Trước cuộc họp Đại tướng đã có nửa giờ gặp mặt với đồng chí Vi Quốc Thanh, trưởng đoàn cố vấn Trung Quốc để trao đổi những kế hoạch của mình và đề nghị đồng chí thuyết phục các đồng chí chuyên gia đã cho rằng chỉ có đánh nhanh, thắng nhanh mới giành được thắng lợi…
Tại buổi họp Đảng ủy mặt trận, Đại tướng đã trình bày những suy nghĩ chung quanh cách đánh tập đoàn cứ điểm, những thay đổi quan trọng về phía địch từ sau hội nghị Thẩm Púa tới nay, ta vẫn giữ vững quyết tâm tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ, nhưng phải thay đổi cách đánh. Có rất nhiều ý kiến của các cán bộ chủ chốt trong cuộc họp vẫn bảo lưu kế hoạch tác chiến cũ như: “đã động viên sâu rộng bộ đội về nhiệm vụ rồi, anh em đều rất tin tưởng, quyết tâm chiến đấu rất cao. Giờ nếu thay đổi thì giải thích cho bộ đội làm sao” và “cứ giữ vững quyết tâm. Hậu cần chuẩn bị tới bây giờ đã khó khăn. Nếu không đánh ngay, sau này lại càng không đánh được” hay “lần này ta có ưu thế về binh lực, pháo 105 ly và pháo cao xạ xuất hiện lần đầu sẽ tạo bất ngờ lớn, lại có kinh nghiệm của bạn, nếu đánh vẫn có khả năng giành thắng lợi”. Trước những ý kiến đó, Đại tướng nhấn mạnh “tình hình khẩn trương. Cần sớm có quyết định. Vô luận tình hình nào, chúng ta vẫn phải nắm nguyên tắc cao nhất là: Đánh chắc thắng… tôi đề nghị các đồng chí trả lời câu hỏi “nếu đánh có chắc thắng trăm phần trăm không?”. Sau nhiều ý kiến trả lời câu hỏi trên, Đảng ủy đi tới nhất trí là trận đánh có thể gặp nhiều khó khăn mà ta chưa có biện pháp cụ thể để khắc phục. Từ đó, Đại tướng đưa ra kết luận: Để đảm bảo nguyên tắc cao nhất là “đánh chắc thắng”, cần chuyển phương châm tiêu diệt địch từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Nay quyết định hoãn cuộc tấn công. Ra lệnh cho bộ đội trên toàn tuyến lui về điểm tập kết và kéo pháo ra, chuẩn bị lại. Công tác chính trị bảo đảm triệt để chấp hành mệnh lệnh lui quân như mệnh lệnh chiến đấu. Hậu cần chuyển sang chuẩn bị theo phương châm mới.
Và thực tế đã chứng minh quyết định sáng suốt của Đại tướng, để sau một thời gian chuẩn bị lại kỹ lưỡng về mọi mặt, ngày 13/3/1954, pháo binh ta trút bão lửa xuống trung tâm đề kháng Him Lam, mở màn cho chiến dịch và trải qua 56 ngày đêm chiến đấu với những cách đánh táo bạo nhưng chắc thắng, ngày 07/5/1954 lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” tung bay trên nắp hầm sở chỉ huy của quân Pháp, chúng ta đã kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ với thắng lợi hoàn toàn.
Trung Nghĩa (tổng hợp)

Thứ Năm, 14 tháng 9, 2017

CHÂN DUNG MỘT CON NGƯỜI


Ngày 04/10/2013, Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời. Đây là một mất mát quá lớn của nhân dân ta, không khí đau thương tràn ngập trên đất nước. Cuộc đời Đại tướng có thể coi là một phần lịch sử dân tộc, chúng ta hãy cùng nhìn lại chân dung cuộc đời con người vĩ đại ấy.


CHÂN DUNG MỘT CON NGƯỜI


Con ngoan trò giỏi: Võ Nguyên Giáp sinh ra trong một gia đình nhà nho trung nông nên ngay từ nhỏ Người đã được thừa hưởng truyền thống hiếu học của gia đình, Người luôn đứng đầu lớp trong học tập và thi cử, là niềm tự hào của gia đình và dân làng. Tại kỳ thi tốt nghiệp bậc sơ học, người đỗ đầu toàn tỉnh, được dân làng vô cùng nể trọng.

Năm 1925, Võ Nguyên Giáp rời trường Tiểu học Đồng Hới ở quê nhà Quảng Bình để vào Huế. Người thi đậu vào trường Quốc học Huế với thành tích đứng thứ hai. Do bị công sứ Pháp tại Huế ngăn cấm người ra Hà Nội học Albert Sarraut và lấy bằng cử nhân luật năm 1937. Vì hoạt động cách mạng người bỏ dở chương trình học tập năm thứ tư về kinh tế chính trị và không lấy bằng luật sư, Võ Nguyên Giáp cũng từng là giáo viên của trường tư thục Thăng Long.

Được nuôi dưỡng trong gia đình có truyền thống yêu nước: Qua lời kể của mẹ, ông ngoại Võ Nguyên Giáp từng tham gia phong trào Cần Vương làm đến chức Đề Đốc coi đại đồn điền. Sau bị quân Pháp bắt, tra tấn dã man, nhưng một mực trung thành, không một lời khai báo. Thân phụ người - Võ Quang Nghiêm - là một nho sinh thi cử bất thành, gia đình cụ Nghiêm thuộc diện nghèo trong làng, quanh năm phải vay nợ nặng lãi của các nhà giàu. Võ Nguyên Giáp đã có lần theo mẹ chèo thuyền chở thóc đi trả nợ. Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng những câu chuyện đêm đêm mẹ kể cho nghe về tướng quân Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương, kêu gọi các sĩ phu và dân chúng đứng lên chống Pháp bảo vệ non sông. Cha nói về phong trào đánh Pháp qua bài vè “Thất thủ kinh đô” đầy cảm động, đã gieo vào lòng cậu bé những ấn tượng không bao giờ phai mờ, góp phần nuôi dưỡng ý chí cho sự nghiệp cách mạng sau này. 

Năm 1927 Võ Nguyên Giáp tổ chức bãi khóa ở trường Quốc học Huế sau đó phát triển thành tổng bãi khóa. Võ Nguyên Giáp bị bắt rồi bị đuổi học, phải trở về quê nhà. Tập tài liệu về “Liên đoàn các dân tộc bị áp bức trên thế giới” và một số văn kiện cuộc họp của hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Quảng Châu, trong đó có 2 bài phát biểu của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Võ Nguyên Giáp hết sức xúc động. Mùa hè năm 1928, Võ Nguyên Giáp trở lại Huế, bước vào đời của một chiến sĩ cách mạng. Người đến làm việc ở Quan Hải Tùng thư, một nhà xuất bản do Tổng bộ Tân Việt chủ trương, trụ sở đặt ở phố Đông Sa. Tại đây Võ Nguyên Giáp có điều kiện tiếp xúc với những học thuyết kinh tế, xã hội, dân tộc, cách mạng. Đặc biệt là cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp” và tờ báo “Người cùng khổ” (Le Paria) do Nguyễn Ái Quốc viết từ Pháp gửi về. Đầu tháng 10/1930, trong sự kiện Xô Viết Nghệ Tĩnh, Võ Nguyên Giáp bị bắt và bị giam ở Huế cùng với bà Nguyễn Thị Quang Thái, em trai là Võ Thuần Nho và giáo sư Đặng Thai Mai là bố vợ sau này của Người... Cuối năm 1931, nhờ sự can thiệp của hội cứu tế đỏ của Pháp, Võ Nguyên Giáp được trả tự do nhưng lại bị ngăn cấm không cho ở lại Huế. Từ 1936 đến 1939, Võ Nguyên Giáp tham gia phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương, là sáng lập viên của Mặt trận và là Chủ tịch Ủy ban báo chí Bắc kỳ trong Đông Dương đại hội. Người tham gia thành lập và làm báo tiếng pháp Notre voix (Tiếng nói của chúng ta), Le Travail (Lao động), biên tập các báo Tin tức, Dân chúng.

Từ thầy giáo dạy sử thành nhà quân sự lỗi lạc: có một điều hết sức ấn tượng về Đại tướng là người không hề học qua một trường lớp quân sự nào, nhưng bằng sự nghiên cứu, tự rút kinh nghiệm bản thân, Đại tướng đã trở thành một vị tướng vĩ đại trong lịch sử nhân loại. Sau hội nghị Trung ương 8 của Đảng, Võ Nguyên Giáp được phân công huấn luyện quân sự cho Việt minh ở Cao Bằng, đánh dấu bước đường hoạt động quân sự đầu tiên của người.

Người anh cả của quân đội nhân Việt Nam, ngày 22/12/1944 thừa lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày nay với 34 chiến sĩ và có ngay hai chiến thắng Phay Khắt, Nà Ngần. Ngày 14/8/1945, Võ Nguyên Giáp trở thành Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, sau đó là Ủy viên Thường vụ Trung ương, tham gia Ủy ban khởi nghĩa. Ngày 16/8/1945, Đại tướng chỉ huy một cánh quân đánh Thái Nguyên và nhanh chóng dành được thắng lợi.

Điện Biên Phủ trận đánh khẳng định tên tuổi: Điện Biên Phủ - nơi chôn vùi mộng xâm lược của thực dân pháp - mang đậm dấu ấn tài năng quân sự của một vĩ nhân, tầm nhìn chiến lược của một thiên tài quân sự. Chiến thắng Điện Biên Phủ làm chấn động địa cầu, cái mà Pháp và Mỹ ca ngợi là pháo đài bất khả xâm phạm đã đổ vỡ trước mắt họ. Pháp buộc phải ký hiệp định Geneve vào ngày 21/7/1954. Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một trong 10 vị tướng được đánh giá là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, được đúc tượng tại một bảo tàng ở London.

CHÂN DUNG MỘT CON NGƯỜI

Quyết định khó khăn nhất trong đời: Trung tướng Phạm Hồng Cư kể lại rằng dự kiến chiến dịch Điện Biên Phủ sẽ nổ ra vào ngày 20/01/1954 chứ không phải là ngày 13/3. Kế hoạch ban đầu được xác định là đánh nhanh thắng nhanh, nở hoa trong lòng địch với cái đuôi dài; như vậy chúng ta sẽ tập trung lực lượng đánh thẳng vào trung tâm Điện Biên Phủ sau đó phát triển lực lượng đi đánh chiếm các cứ điểm khác. Nhưng đó là lúc Pháp mới tăng cường lên Điện Biên; lực lượng còn ít, công sự còn dã chiến; nay Pháp đã tăng cường thêm lực lượng, công sự đã chuyển sang kiên cường vững chắc, nếu đánh theo lối đánh cũ sẽ rất mạo hiểm nhưng kế hoạch tác chiến đã được thông qua, mọi công tác chuẩn bị đã sẵn sàng chỉ chờ lệnh nổ súng nếu giờ thay đổi thì tâm lý chiến sĩ ra sao? Hàng loạt câu hỏi được đặt ra, nhưng nghĩ đến lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “trận này chỉ được thắng không được thua vì nếu thua coi như hết vốn”; vì đây là trận quyết định vị thế thắng hay thua của cả ta và Pháp trên bàn đàm phán tại hội nghị Geneve sắp tới. Cuối cùng Hội nghị cấp ủy đi đến quyết định kéo vào và lui quân về vị trí tập kết. Sau này Đại tướng thừa nhận đây là quyết định khó khăn nhất trong đời của người. Ý nghĩa của chiến thắng Điện Biên Phủ thì ai cũng rõ, nhưng cái đáng nói ở đây chính là nghệ thuật quân sự “chấn động năm châu” mang tên Võ Nguyên Giáp

Đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam: Ngày 20/01/1948, Bác Hồ đã ký sắc lệnh phong quân hàm cho một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy quân đội. Theo sắc lệnh này Đại tướng Võ Nguyên Giáp được trao quân hàm Đại tướng. Các đồng chí Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình được phong quân hàm Thiếu tướng; người được phong quân hàm cấp Trung tướng là đồng chí Nguyễn Bình. Tính đến nay người là vị đại tướng trẻ nhất trong quân đội ta và khó có thể phá vỡ. Lễ phong quân hàm cho Đại tướng được tổ chức ngày 28/5/1948 (đến nay trong quân đội mới chỉ có 12 vị Đại tướng).

Vai trò của Đại tướng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ: sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, những tưởng nhân dân ta được hưởng cuộc sống hòa bình; nhưng đế quốc Mỹ lật lọng đã âm mưu chia cắt đất nước ta, phá hoại hiệp định Geneve, dựng nên chính phủ phản động, đàn áp cách mạng. Trên cương vị là người đứng đầu Quân đội, Bí thư Quân ủy Trung ương, Đạị tướng đã có những quyết sách, tham mưu đúng đắn cho Đảng góp phần một lần nữa đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.

Năm 1959, Đại tướng quyết định thành lập đoàn 559 mở đường Trường Sơn chi viện cho cách mạng miền Nam. Đại tướng cũng tham mưu cho Đảng cử những cán bộ vào trực tiếp chỉ đạọ cách mạng miền Nam như Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Đại tướng Lê Trọng Tấn , Thượng tướng Hoàng Minh Thảo… góp phần xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng miền Nam thành những Trung đoàn, Sư đoàn, Quân đoàn đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ, làm nên đại thắng mùa xuân 1975.

Nhiều người nói rằng vai trò của tướng Giáp khá mờ nhạt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, như cuộc tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu thân 1968, nhưng đâu biết rằng việc đó là nằm trong kế hoạch của ta nhằm làm kẻ địch mất cảnh giác. Thực chất Đại tướng và Bác Hồ đang chỉ đạo từ xa. Để có được chiến thắng Điện Biên Phủ trên không, tướng Giáp đã chỉ đạo cho quân chủng phòng không không quân chuẩn bị phương án đánh B52 từ năm 1968. Thất bại trong chiến dịch này buộc Mỹ phải chấp nhận ký Hiệp định Paris với những điều khoản nhân nhượng mà chính họ trước đó đã từ chối.

Năm 1975, Võ Nguyên Giáp đề xuất và ra quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh, mệnh lệnh nổi tiếng nhất của ông khi chỉ đạo chiến dịch Hồ Chí Minh hẳn phải ai cũng biết: "Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng". Điều đó thể hiện khả năng quân sự tài tình chọn thời cơ, nắm vững thời cơ, tận dụng thời cơ của Đại tướng và đi đến chiến thắng cuối cùng là lẽ tất nhiên.

Hai mối tình keo sơn suốt đời Đại tướng: Ít ai biết rằng Đại tướng Võ Nguyên Giáp có hai người vợ. Người vợ đầu của Người là liệt sĩ Nguyễn Thị Quang Thái - là em gái của Nguyễn Thị Minh Khai. Người vợ thứ hai của Đại tướng là Phó Giáo sư Đặng Thị Bích Hà, con gái của giáo sư Đặng Thai Mai; hai người sống rất hạnh phúc bên nhau cho đến khi đại tướng qua đời. Bà Bích Hà từng kể, khi 6-7 tuổi, bà hay được ông Giáp đèo đi chơi đến sân vận động Hàng Đẫy tập thể thao. Một hôm bỗng dưng ông nói: “Anh sẽ cưới Hà bằng một đĩa xôi và một con gà”. Không ai ngờ câu nói đùa ấy hơn mười năm sau lại trở thành sự thật. Đến những năm gần đây, khi sức khỏe ngày càng yếu, hầu hết thời gian của Đại tướng là ở trong viện, tuần nào bà Bích Hà cũng vào thăm chồng, cùng ông chuyện trò. Hôm nào mệt bà không vào được, ông thể nào cũng hỏi các con: “Mẹ thế nào?”. Khi nghe các con nói: “Mẹ vẫn khỏe, mẹ bình thường ạ!” thì ông mới gật gật đầu: “Bảo mẹ giữ gìn sức khỏe!”. Tình yêu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Phó Giáo sư Đặng Bích Hà là như vậy, bình dị nhưng sâu đậm cho đến suốt cuộc đời. (nguồn Internet).

Người Đại tướng cả đời vì nước vì dân: Thời gian cuối đời, ông vẫn quan tâm và đưa ra một số lời bình luận trên mặt báo về tình hình đất nước như có bài báo yêu cầu kiểm định và báo cáo Đại hội Đảng lần thứ X về vụ PMU18 hay cuộc gặp gỡ và khuyến khích doanh nhân làm xuất khẩu nông sản. Người cũng có những bài viết về thực trạng và kiến nghị 6 vấn đề "cơ bản và cấp bách" nhằm triển khai có kết quả công cuộc đổi mới nền giáo dục và đào tạo của Việt Nam hiện nay. Vào đầu năm 2009, Đại tướng có nhiều góp ý về các sự kiện lớn của đất nước. Tiêu biểu là việc góp ý về dự án quặng Bô xít ở Tây Nguyên. Không dưới 3 lần, ông đã viết thư yêu cầu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dừng dự án này, vì lý do an ninh quốc gia và vấn đề môi trường (nguồn internet). 

CHÂN DUNG MỘT CON NGƯỜI

Ngôi nhà của Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn là địa điểm ghé thăm của nhiều nhà lãnh đạo thế giới và cả những người từng là đối thủ của người trên chiến trường. Tất cả đều phải thừa nhận rằng tài năng, tấm lòng đức độ của người thật cao cả, thật hiếm có. Đại tướng vẫn luôn nói về chiến thắng của nhân dân Việt Nam là do sự đoàn kết của chính con người Việt Nam làm nên.

Sau Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp không những chỉ nhân dân Việt Nam mà còn nhân dân trên toàn thế giới khâm phục và kính trọng, bởi tài năng và phẩm chất cách mạng cao quý, bởi cống hiến và tấm lòng hết mình vì đất nước vì dân tộc. Thiên tài quân sự, vị tướng kiệt suất, người con trung hiếu sắt son của dân tộc Việt Nam - Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tên gọi thân thương ấy cũng sẽ sống mãi với non sông đất nước.