KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, THỜI ĐẠI CỦA CHIẾN THẮNG 30 THÁNG 4

Năm nay, trong những ngày hướng đến kỷ niệm Chiến thắng lịch sử vĩ đại 30/4/1975, nhân dân ta đón mừng sự kiện này với nhiều niềm vui mới. Theo báo cáo của Chính phủ, kinh tế Việt Nam năm 2018 khởi sắc trên cả ba khu vực sản xuất, cung - cầu của nền kinh tế cùng song hành phát triển.

NHẬN DIỆN VÀ NGĂN NGỪA THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG LÒNG YÊU NƯỚC ĐỂ KÍCH ĐỘNG NGƯỜI DÂN XUỐNG ĐƯỜNG BIỂU TÌNH, GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Người yêu nước chân chính là người biết sử dụng pháp luật, đạo đức, truyền thống tốt đẹp để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, đồng thời phải biết tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Nhận diện được phương thức, thủ đoạn lợi dụng lòng yêu nước để kích động nhân dân làm việc xấu chính là nhằm đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp, đồng thời tránh được sự lợi dụng đó để gây ra rối loạn xã hội, phức tạp tình hình.

Thông cáo báo chí kỳ họp 32 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Từ ngày 03 đến 06/12/2018 tại Hà Nội, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã họp kỳ 32. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương chủ trì kỳ họp.

UBKTTW kết luận vụ AVG: Sai phạm của ông Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn là rất nghiêm trọng

UBKTTW vừa họp kỳ 26 kết luận vụ AVG có những vi phạm của Ban cán sự đảng Bộ TT-TT, ông Nguyễn Bắc Son, ông Trương Minh Tuấn, ông Phạm Đình Trọng, của Ban Thường vụ Đảng ủy Mobifone và các ông Lê Nam Trà, Cao Duy Hải là rất nghiêm trọng.

Bốn kỳ vọng thay đổi lớn về công tác cán bộ sau 4 ngày Hội nghị T.Ư 7

Sau 4 ngày làm việc, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng được dư luận đặc biệt quan tâm, trong đó có công tác cán bộ, bởi đây là vấn đề “nóng” trong tình hình hiện nay.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Giỗ Tổ Hùng vương. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Giỗ Tổ Hùng vương. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 14 tháng 4, 2019

HƯỚNG VỀ NGUỒN CỘI, QUY TỤ SỨC MẠNH ĐOÀN KẾT

“Dù ai đi ngược, về xuôi/ Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng Mười, tháng Ba”. Giỗ Tổ Hùng Vương là ngày Quốc lễ ở Việt Nam. Từ bao đời nay, ngày Giỗ Tổ trở thành nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc, của mọi người con đất Việt hướng về tổ tông, nguồn cội, tưởng nhớ và tri ân công đức tổ tiên.

HƯỚNG VỀ NGUỒN CỘI, QUY TỤ SỨC MẠNH ĐOÀN KẾT
Khu di tích lịch sử Đền Hùng.
Hằng năm, cứ vào dịp mồng Mười tháng Ba, con Rồng cháu Tiên từ khắp mọi miền đất nước và từ nhiều nước trên thế giới lại hướng về đất Tổ - Khu di tích lịch sử Đền Hùng (Phú Thọ) và nhiều địa điểm linh thiêng ở các tỉnh, thành phố để dâng hương kính lễ tổ tiên, tưởng nhớ công ơn của các Vua Hùng.
Hạnh phúc của một dân tộc không thể thiếu cội nguồn, giang sơn và hòa bình. Chúng ta thật tự hào có cội nguồn bền vững. Sáng tỏa mấy nghìn năm nay hình tượng Cha Lạc Long Quân, Mẹ Âu Cơ cùng 18 đời Vua Hùng luôn khắc sâu trong tâm khảm người dân. Chúng ta có giang sơn hùng vĩ, núi non trùng điệp, ruộng đồng, biển rộng bao la... do ông cha để lại. Và, sau nhiều cuộc xâm lăng của các thế lực ngoại bang, đất nước ta đã có hòa bình. Những gì có được hôm nay là vô giá, tính từ mỗi tấc đất, thước biển, mỗi ngày bình yên, từng công trình dựng lên trên mảnh đất còn không ít dấu tích chiến tranh. Bỗng nhớ biết bao lời Bác Hồ căn dặn: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, người người hành hương về nguồn cội - Khu di tích lịch sử Đền Hùng (Phú Thọ) và nhiều địa điểm thờ cúng, tưởng niệm các Vua Hùng ở các địa phương. Là con dân đất Việt, ai cũng nhớ ngày Giỗ Tổ và luôn mang trong mình truyền thống, đạo lý “uống nước nhớ nguồn” được truyền từ đời này qua đời khác. Không chỉ ở trong nước, Giỗ Tổ Hùng Vương còn được tổ chức trong cộng đồng người Việt ở nhiều nước trên thế giới.
 Giỗ Tổ Hùng Vương hội tụ nhiều giá trị về lịch sử, văn hóa đất nước, đặc biệt là sự kết nối, hội tụ, đoàn kết và hòa hợp dân tộc với tinh thần “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Nghĩa đồng bào thật cao cả! Chúng ta, dù ở đâu, làm gì cũng đều là con Lạc, cháu Hồng. Các Vua Hùng là điểm tựa tinh thần bất tử của dân tộc đã mấy nghìn năm. Hướng về cội nguồn là hướng về đất nước, cùng chung khát vọng, chung sức đồng lòng, đoàn kết toàn dân tộc để dựng xây giang sơn gấm vóc ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
Lời non sông vang vọng, lan tỏa từ đất Tổ linh thiêng. Núi Nghĩa Lĩnh không cao, nhưng muôn đời là biểu tượng của sự quy tụ, đoàn kết dân tộc. Mỗi người dân đến đây, hoặc chưa có dịp về đây, đều thành kính thắp nén hương thơm cùng bánh chưng, bánh giầy dâng lên Quốc Tổ Lạc Long Quân, Quốc mẫu Âu Cơ và các Vua Hùng, với lòng thành kính, biết ơn, lòng yêu nước, thương nòi; nghĩ và làm những điều tốt đẹp cho đất nước, cho dân tộc. Hận thù, ngăn cách, chia rẽ không bao giờ là mong muốn của tổ tông. Hòa hợp, đoàn kết muôn người mới là điều cao cả. “Thương người như thể thương thân”, đó là minh triết sống, là truyền thống, nét đẹp văn hóa của dân tộc có từ lâu, từ thuở dân đi cấy, vua đi cày, từ thời những cánh chim Lạc bay qua các thửa Lạc điền dưới chân đồi bát úp. Xưa xa, nhưng cũng rất gần!
Cần tiếp tục làm tốt việc giáo dục, hun đúc, phát huy giá trị truyền thống lịch sử, lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, tự tôn dân tộc, nhất là với thế hệ trẻ, tạo sức lan tỏa hơn nữa của Giỗ Tổ Hùng Vương - ngày lễ trọng đại của dân tộc, ngày Quốc lễ của Việt Nam. Công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hành trình hướng tới tương lai tươi sáng luôn đồng hành với sự quy tụ, đoàn kết dân tộc vững bền. Đó cũng chính là tinh thần bất diệt của Giỗ Tổ Hùng Vương./.
NGUYỄN HỮU QUÝ

HIỂU THỜI ĐẠI DỰNG NƯỚC ĐỂ Ý THỨC VỀ VIỆC GIỮ NƯỚC


Cứ mỗi dịp Lễ giỗ Tổ Hùng Vương 10/3 âm lịch hằng năm, mỗi người dân Việt Nam lại nhớ về thời đại khai sinh lập quốc, ghi nhớ công ơn dựng nước và giữ nước của ông cha, tiên tổ…

HIỂU THỜI ĐẠI DỰNG NƯỚC ĐỂ Ý THỨC VỀ VIỆC GIỮ NƯỚC
GS.TS. NGND Nguyễn Quang Ngọc, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.

Chúng tôi đã có cuộc trao đổi với GS.TS. NGND Nguyễn Quang Ngọc, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam xung quanh thời đại Hùng Vương và việc bảo tồn, phát huy giá trị lịch sử của dân tộc. 

PV: Thưa Giáo sư, dưới góc độ nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam, xin Giáo sư cho biết truyền thuyết về Hùng Vương được hiểu như thế nào?

GS. TS Nguyễn Quang Ngọc: Câu chuyện Hùng Vương là vấn đề rất lớn, rất căn bản của lịch sử Việt Nam. Trước đây nhiều người vẫn tin Hùng Vương dựng nước chỉ thuần túy là một truyền thuyết, một huyền thoại, mà không hiểu được cái lõi lịch sử của nó…
Nhưng thực ra cũng từ rất sớm tổ tiên chúng ta đã bước đầu giải mã huyền thoại này và đưa thời đại Hùng Vương vào trong các bộ sử chính thức đầu tiên. Bằng chứng là sách “Việt sử lược” đời Trần đã dành một mục để nói về thời đại Hùng Vương, An Dương Vương.
Đặc biệt, sang thế kỷ XV, khi làm bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” thì Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê đã chính thức đưa thời kỳ Hùng Vương dựng nước vào trong bộ Quốc sử đời Lê. Các nhà chép sử đời sau càng ngày càng làm sáng rõ hơn vị trí và ý nghĩa của thời đại dựng nước đầu tiên, đến đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu còn xác định hết sức rõ ràng rằng Hùng Vương là Thủy tổ dựng nước rồi tiếp đến Ngô Quyền là Tổ Trung hưng đất nước…
Tuy nhiên, những tiến bộ trong nhận thức này vẫn chủ yếu trên cơ sở phân tích, đánh giá các nguồn tư liệu thư tịch, mà tư liệu thư tịch thì xuất hiện muộn hơn thời đại Hùng Vương dựng nước nhiều, nên người đọc sử vẫn có quyền hoài nghi độ xác thực của nó.
Phải đến cuối những năm 1960 (1968-1970), dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng, một chương trình khoa học liên ngành quốc gia nghiên cứu về thời đại Hùng Vương dựng nước ra đời do GS Viện sĩ Phạm Huy Thông chủ trì, với sự tham gia của các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau ở cả trong nước và quốc tế.
Các nhà khoa học tập trung nghiên cứu về nhiều lĩnh vực như lịch sử cổ đại, địa lý lịch sử, dân tộc học, ngôn ngữ học lịch sử, cổ nhân học, địa chất học, sinh vật học… trong đó lấy khảo cổ học thời đại kim khí (đồ đồng, đồ sắt) làm trung tâm cốt lõi. Kết hợp tất cả các nguồn tư liệu (di tích, di vật, thư tịch cổ, truyền thuyết, phong tục thờ cúng, văn hóa dân gian, phương ngữ, địa danh… ở các địa phương), chúng ta đã giải mã, tìm ra được sự hợp lý và thống nhất của tất cả các nguồn tư liệu, làm cơ sở chứng minh một cách thuyết phục thời đại Hùng Vương dựng nước là thời đại có thật trong lịch sử Việt Nam, nó nằm trong khung niên đại của văn hóa Đông Sơn.
Hay nói một cách khác là quá trình hình thành nhà nước Văn Lang thời Hùng Vương nằm gọn trong giai đoạn Văn hóa Đông Sơn, thuộc sơ kỳ thời đại đồ sắt trên đất Việt Nam.
Từ đấy trở đi, Việt Nam càng ngày càng đẩy mạnh hơn việc nghiên cứu về thời đại Hùng Vương. Đặc biệt việc nghiên cứu này đã tranh thủ được sự ủng hộ của các chuyên gia quốc tế và nhất là sự hỗ trợ của khoa học công nghệ hiện đại nên đã chứng minh được một cách rõ ràng, đầy đủ và hoàn toàn thuyết phục về một thời đại dựng nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà không ai có thể phủ định được.

PV: Chúng ta vẫn thường nghe về “lịch sử 4.000 năm dựng nước”. Vậy thời đại Hùng Vương có phải cũng nằm trong giai đoạn đầu tiên đó không, thưa giáo sư?

GS.TS Nguyễn Quang Ngọc: Cần phải nói rằng, trong dân gian hay cả trong giới nghiên cứu cũng có các quan niệm về thời điểm khởi đầu của lịch sử đất nước không thật giống nhau.
Theo quan niệm thông thường là từ khi có con người xuất hiện trên phạm vi lãnh thổ đất nước hiện nay là đất nước có sử từ thời điểm đó; còn một quan niệm chính thức của giới nghiên cứu thì chỉ khi nhà nước sơ khai đầu tiên xuất hiện thì coi đó là thời điểm mở đầu của lịch sử đất nước (với tư cách là lịch sử của quốc gia dân tộc), còn trước đó gọi là thời nguyên thủy, chưa có giai cấp, chưa có nhà nước và Khảo cổ học gọi là thời Tiền sử.
Trước đây chúng ta hay nói, nước ta có 4.000 năm lịch sử, vì chúng ta tin theo cách tính toán của các cụ đời xưa rằng Hùng Vương dựng nước cách đây 4.000 năm.
Thật ra cách chọn 4.000 năm cũng là cách chọn đại khái theo truyền thuyết, còn trong sách “Đại Việt sử ký toàn thư” (tất nhiên cũng dựa theo truyền thuyết) thì cho rằng Kinh Dương Vương bắt đầu dựng nước vào năm 2.879 trước Công Nguyên (TCN), tính đến nay (2019) thì đã có đến 4898 năm.
Tuy nhiên, như tôi đã nói ở trên là tính toán của các cụ đời trước chỉ cho chúng ta một ý niệm về lịch sử dựng nước lâu đời của tổ tiên ta, chứ không cho chúng ta một niên đại chính xác.
May thay, sách “Việt sử lược”, bộ sử thời Trần còn ghi lại được: “Đến đời Trang Vương nhà Chu (698-682 TCN), ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang… Truyền được 18 đời, đều gọi là Hùng Vương”.
Niên đại Hùng Vương lập nước Văn Lang được “Việt sử lược” xác định là xấp xỉ 2.700 năm cách ngày nay. Niên đại này gần như trùng khớp với mốc mở đầu của văn hóa Đông Sơn.
Theo quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thì nhà nước chỉ có thể ra đời khi phân hoá giai cấp đã phát triển đủ độ chín muồi. Mà phân hoá giai cấp chỉ phát triển cao trên nền tảng năng suất lao động và kinh tế phát triển. Năng suất lao động phát triển trên cơ sở sự thay đổi của công cụ sản xuất.
Các nhà nước sơ khai trên thế giới thường ra đời ở giai đoạn thời kỳ đồ sắt, đây là quy luật có tính phổ biến trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, ở giai đoạn văn hoá Đông Sơn mới có sự phân hoá giai cấp, phân hoá xã hội nhưng chưa đủ độ chín muồi cho sự ra đời của nhà nước. Tuy nhiên, ở Việt Nam lúc này còn có hai yếu tố thúc đẩy nhà nước ra đời sớm hơn là nhu cầu đoàn kết chống ngoại xâm và nhu cầu trị thủy, làm thuỷ lợi của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước ở vùng lưu vực sông Hồng. Các nhà khoa học đã chứng minh nhà nước ta chỉ ra đời ở thời kỳ văn hoá Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2.700-2.500 năm, không thể đẩy lên trước Đông Sơn được (vì xã hội thời Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun chưa vượt ra khỏi loại hình xã hội nguyên thủy).
Niên đại mà chúng ta đang bàn ở đây hoàn toàn đúng với ghi chép của “Việt sử lược” và cũng phù hợp với các nguồn sử liệu khác mà chúng ta biết đến cho đến thời điểm hiện nay. Do đó, chúng ta có đủ cơ sở khoa học để kết luận rằng, nhà nước Văn Lang của Vua Hùng ra đời sớm nhất cách chúng ta khoảng 2.700 năm.

PV: Như vậy, thời đại Hùng Vương trong truyền thuyết cũng gắn liền với thời đại dựng nước trong lịch sử Việt Nam. Giáo sư đánh giá như thế nào về vai trò, vị trí của thời đại dựng nước trong tiến trình lịch sử dân tộc?

GS.TS Nguyễn Quang Ngọc: Thời đại dựng nước có vị trí, ý nghĩa hết sức đặc biệt trong tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam. Bởi vì chúng ta có một lịch sử dựng nước rất huy hoàng, sớm có truyền thống yêu nước, truyền thống uống nước nhớ nguồn, nhớ công ơn của tiên tổ đã đem lại cho ta quê hương, đất nước này, đó cũng là nguồn sức mạnh lớn lao để chúng ta xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Khi đất nước bị rơi vào ngoại bang, kẻ thù xâm lược thì nguyện vọng, quyết tâm lớn nhất của cả dân tộc là giành lại đến cùng nền độc lập tự do. Không phải ngẫu nhiên mà từ đầu Công nguyên, khi Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa thì lời thề là: “rửa sạch nước thù”“nối lại nghiệp xưa họ Hùng”. Tức là phải chiến đấu đến cùng để tiêu diệt bọn cướp nước, giành lại giang sơn đã bị bọn xâm lược giày xéo.
Hay chỉ hơn một tuần nữa TP Hà Nội sẽ làm lễ kỷ niệm 1.080 năm Ngô Quyền xưng vương và định đô ở Cổ Loa. Sau đại thắng Bạch Đằng, Ngô Quyền quyết định mở nước, xưng vương và định đô Cổ Loa là để nối lại quốc thống, tiếp tục sự nghiệp dựng nước và giữ nước thời đại các vua Hùng vua Thục.
Có thể nói, thời đại dựng nước đầu tiên là cội nguồn sức mạnh để dân tộc ta vượt qua muôn trùng hiểm họa của cả nghìn năm Bắc thuộc, đã và sẽ mãi mãi là nguồn lực tinh thần, vật chất vô cùng tận để chúng ta xây dựng và bảo vệ đất nước thiêng liêng được khởi lập từ thuở vua Hùng dựng nước Văn Lang.
Năm 1942 khi về nước để lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Bác Hồ đã viết cuốn “Lịch sử nước ta”, trong đó câu đầu tiên Bác viết: “Dân ta phải biết sử ta/ Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Phải hiểu rõ gốc tích nước nhà thì mới có nguồn lực, sức mạnh để chiến đấu, hy sinh vì sự trường tồn của đất nước…
Năm 1954, tại sườn núi Nghĩa, dưới mái Đền Hùng, khi nói chuyện với Đại đoàn quân Tiên Phong chuẩn bị về tiếp quản Thủ đô, Bác Hồ căn dặn: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Đây có thể coi là tuyên ngôn kết tinh lịch sử, sức sống của thời đại Hùng Vương. Đất nước này là đất nước của tổ tiên, do tổ tiên chúng ta dựng nên, cho nên chúng ta phải quyết giữ bằng mọi giá.
Và tinh thần của con người Việt Nam suốt trường kỳ lịch sử luôn như vậy. Thời đại dựng nước luôn là biểu tượng cao nhất của Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, là cội nguồn sức sống Việt Nam, sức mạnh Việt Nam…

PV: Hiểu về thời đại dựng nước, chúng ta càng ý thức hơn việc bảo tồn, phát huy giá trị lịch sử của dân tộc. Quan điểm của giáo sư về vấn đề này như thế nào?

GS.TS Nguyễn Quang Ngọc: Phát huy giá trị lịch sử văn hoá của thời đại dựng nước là câu chuyện rất lớn. Thực tế cho thấy, thời đại nào phát huy được thì thời đại đó phát triển và hùng mạnh. Cũng cần phải thấy rõ nhu cầu ngày càng cao của việc bảo tồn và phát huy các giá trị, di sản lịch sử văn hoá thời đại dựng nước đầu tiên của lịch sử Việt Nam, đặc biệt là đối với giới trẻ - thế hệ tương lai của đất nước.
Tôi cũng hy vọng các nhà chiến lược, đặc biệt những người làm chiến lược về giáo dục của Việt Nam cần nhận rõ hơn vị trí, vai trò của sử học. Đặc biệt sử học của thời đại dựng nước trong chương trình đào tạo ở các bậc học, từ khi học sinh bắt đầu học phổ thông cho đến đại học và sau đại học.

PV: Nhìn rộng ra ý nghĩa của ngày Giỗ Tổ 10/3, theo Giáo sư chúng ta có thể thu nhận được bài học gì trong thời đại ngày nay?

GS.TS Nguyễn Quang Ngọc: Thời đại Hùng Vương và lễ Giỗ Tổ nhắc ta về những truyền thống, đạo lý tốt đẹp của người Việt, cũng như ý thức trách nhiệm trước sự bảo tồn và phát huy các giá trị vĩnh cửu của dân tộc. Đó là truyền thống yêu nước - cội nguồn sức mạnh của dân tộc.
Mà yêu nước tức là phải tìm mọi cơ hội, bằng mọi cách, bằng mọi giá góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước, để đất nước ngày càng giàu mạnh, tươi đẹp. Ngược lại, quan liêu, lãng phí, tham nhũng (nhất là tham nhũng chính sách)… chỉ làm suy giảm và khánh kiệt mọi nguồn lực phát triển đất nước. Cả tiền nhân và hậu thế đều không thể dung tha cho loại phạm tội này.

PV: Trân trọng cảm ơn Giáo sư về cuộc trò chuyện!

Thứ Bảy, 13 tháng 4, 2019

GIÁ TRỊ THIÊNG LIÊNG

Truyền thuyết người mẹ khởi nguyên Âu Cơ sinh ra cái bọc có trăm trứng, nở ra một trăm người con trai, một nửa ở vùng cao - vùng núi, một nửa ở vùng biển - vùng đồng bằng - tượng trưng cho toàn thể dân tộc chung một cội nguồn, hình thành nên “nghĩa đồng bào” thiêng liêng, sâu nặng. 
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
hay 
“Tuy rằng xứ Bắc, xứ Đông
Khắp trong bờ cõi cũng dòng anh em”,
“Anh em cốt nhục đồng bào
Kẻ sau người trước, thuận hòa cho vui”… 
là những câu ca phản ánh quan niệm sống yêu thương, đùm bọc trong cộng đồng của người Việt. Đó là một giá trị trường tồn.

GIÁ TRỊ THIÊNG LIÊNG

Bắt nguồn từ truyền thống thờ cúng tổ tiên, người Việt đã tôn vinh các Vua Hùng là thủy tổ chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và gìn giữ hương khói từ đời này qua đời khác, với tinh thần “Con người có tổ, có tông/ Như cây có cội, như sông có nguồn”.
Trong đời sống hiện nay của thế giới nói chung rất phức tạp, ẩn chứa nhiều xung đột, mâu thuẫn, nhiều nguy cơ chia rẽ về tôn giáo, sắc tộc, văn hóa… thì tinh thần đoàn kết, gắn bó, cùng nhau hướng về những giá trị chung của lòng biết ơn nguồn cội, tổ tiên của người Việt nổi bật một giá trị tinh thần đặc biệt quý báu.
Chính vì thế, các nghi lễ thờ cúng Vua Hùng trải qua biết bao biến thiên của lịch sử, đến nay đã mang tầm vóc quốc tế, qua sự kiện UNESCO công nhận “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ” là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2012. UNESCO nhận định: Thờ cúng Hùng Vương thể hiện lòng tri ân tổ tiên nhằm nâng cao niềm tự hào và cố kết xã hội, đồng thời khuyến khích các cộng đồng nhận thức được sự tương đồng trong khi nâng cao sự đa dạng văn hóa. Như vậy, những giá trị tinh thần qua tín ngưỡng thờ cúng các Vua Hùng đã mang giá trị nhân loại, vượt qua ranh giới địa lý và văn hóa của mỗi quốc gia.
Qua lớp sương mù huyền thoại, các nghiên cứu đã cho chúng ta thấy thời đại Hùng Vương mà sử thành văn đã chép có niên đại khoảng từ cuối Thiên niên kỷ thứ III TCN đến Thế kỷ thứ 3 TCN, tương ứng với khoảng thời gian này là sự tồn tại của thời đại đồng thau mà khảo cổ học đã phát hiện ra các nền văn hóa Phùng Nguyên, Đông Sơn. Chính trên nền tảng của văn hóa Đông Sơn mà hình thành nên nhà nước Văn Lang.
Thời đại Hùng Vương đánh dấu sự chuyển biến kinh tế - xã hội từ nguyên thủy sang văn minh. Cư dân đã chiếm lĩnh vùng đất cao châu thổ sông Hồng, sông Mã và sông Cả, những vùng đất phù sa màu mỡ dần được khai thác trong quá trình chinh phục rừng rậm, đầm lầy. Với điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, nước dư thừa, đất đai phì nhiêu bên các con sông lớn của Đồng bằng Bắc Bộ và Đồng bằng Trung bộ rất thuận lợi cho việc trồng lúa nước và hình thành nền Văn minh lúa nước.
Nền văn minh lúa nước là chiếc nôi để hình thành cộng đồng cư dân có lối sống định cư, định canh và các giá trị văn hoá, đặc biệt là văn hóa làng xã, nơi ấp ủ trao truyền những phong tục, tập quán tốt đẹp ngàn năm.
Nước Văn Lang và sau đó là nước Âu Lạc đã mở đầu thời kỳ dựng nước và giữ nước vẻ vang trong lịch sử Việt Nam. Các kết quả khảo cổ phát hiện nhiều loại vũ khí bằng đồng thau cho thấy các cư dân Lạc Việt đã phòng bị, cảnh giác trước nạn ngoại xâm.
Vì vậy, hướng về Đền Hùng lịch sử, chúng ta còn tiếp nhận được bài học ngàn năm về chinh phục thiên nhiên, xây dựng cuộc sống ấm no và tạo dựng nền văn hóa, văn minh mang bản sắc Việt và bài học về không ngừng cảnh giác, nâng cao năng lực bảo vệ Tổ quốc mỗi khi có nguy cơ bị xâm lăng.
Những bài học ngàn năm ấy không bao giờ cũ./.

Thứ Ba, 24 tháng 4, 2018

GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG 10/3 ÂM LỊCH CÙNG HÀNH ĐỘNG VÌ MỘT NƯỚC VIỆT NAM THỊNH VƯỢNG, GIÀU ĐẸP, HÙNG CƯỜNG, AN BÌNH.


“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng ba.
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”
GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG 10/3 ÂM LỊCH CÙNG HÀNH ĐỘNG VÌ MỘT NƯỚC VIỆT NAM THỊNH VƯỢNG, GIÀU ĐẸP, HÙNG CƯỜNG, AN BÌNH.
Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước
Ngày giỗ tổ Hùng Vương hay còn gọi là "Lễ hội Đền Hùng" là một ngày lễ của Việt Nam, là ngày để tất cả mọi người cùng về đất nước Việt Nam này để tận hưởng được giá trị của sự bình yên và sự hi sinh của những đồng bào có công cùng các Vua Hùng dựng nước. Lễ được tổ chức hàng năm vào ngày 10 tháng 3 âm lịch tại Đền Hùng (Việt Trì, Phú Thọ). Đây là ngày hội truyền thống của dân tộc nhằm mục đích tưởng nhớ đến công ơn các Vua Hùng đã có công dựng nước. Theo truyền thuyết thì Lạc Long Quân và Âu Cơ được xem như là thủy tổ người Việt, cha mẹ của các Vua Hùng.

Giỗ tổ Hùng Vương 10/3/2018 âm lịch, chúng ta cùng hướng về cội nguồn, tri ân công đức tổ tiên, mỗi người con đất Việt mang trong mình dòng máu Lạc Hồng luôn tự nhủ và mong ước làm sao để xứng đáng với Tổ tiên, với công lao của các Vua Hùng như lời Bác Hồ đã dạy: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.