Năm 1925, Võ Nguyên Giáp rời trường Tiểu học Đồng Hới ở quê nhà Quảng Bình để vào Huế. Người thi đậu vào trường Quốc học Huế với thành tích đứng thứ hai. Do bị công sứ Pháp tại Huế ngăn cấm người ra Hà Nội học Albert Sarraut và lấy bằng cử nhân luật năm 1937. Vì hoạt động cách mạng người bỏ dở chương trình học tập năm thứ tư về kinh tế chính trị và không lấy bằng luật sư, Võ Nguyên Giáp cũng từng là giáo viên của trường tư thục Thăng Long.
Được nuôi dưỡng trong gia đình có truyền thống yêu nước: Qua lời kể của mẹ, ông ngoại Võ Nguyên Giáp từng tham gia phong trào Cần Vương làm đến chức Đề Đốc coi đại đồn điền. Sau bị quân Pháp bắt, tra tấn dã man, nhưng một mực trung thành, không một lời khai báo. Thân phụ người - Võ Quang Nghiêm - là một nho sinh thi cử bất thành, gia đình cụ Nghiêm thuộc diện nghèo trong làng, quanh năm phải vay nợ nặng lãi của các nhà giàu. Võ Nguyên Giáp đã có lần theo mẹ chèo thuyền chở thóc đi trả nợ. Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng những câu chuyện đêm đêm mẹ kể cho nghe về tướng quân Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương, kêu gọi các sĩ phu và dân chúng đứng lên chống Pháp bảo vệ non sông. Cha nói về phong trào đánh Pháp qua bài vè “Thất thủ kinh đô” đầy cảm động, đã gieo vào lòng cậu bé những ấn tượng không bao giờ phai mờ, góp phần nuôi dưỡng ý chí cho sự nghiệp cách mạng sau này.
Năm 1927 Võ Nguyên Giáp tổ chức bãi khóa ở trường Quốc học Huế sau đó phát triển thành tổng bãi khóa. Võ Nguyên Giáp bị bắt rồi bị đuổi học, phải trở về quê nhà. Tập tài liệu về “Liên đoàn các dân tộc bị áp bức trên thế giới” và một số văn kiện cuộc họp của hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Quảng Châu, trong đó có 2 bài phát biểu của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Võ Nguyên Giáp hết sức xúc động. Mùa hè năm 1928, Võ Nguyên Giáp trở lại Huế, bước vào đời của một chiến sĩ cách mạng. Người đến làm việc ở Quan Hải Tùng thư, một nhà xuất bản do Tổng bộ Tân Việt chủ trương, trụ sở đặt ở phố Đông Sa. Tại đây Võ Nguyên Giáp có điều kiện tiếp xúc với những học thuyết kinh tế, xã hội, dân tộc, cách mạng. Đặc biệt là cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp” và tờ báo “Người cùng khổ” (Le Paria) do Nguyễn Ái Quốc viết từ Pháp gửi về. Đầu tháng 10/1930, trong sự kiện Xô Viết Nghệ Tĩnh, Võ Nguyên Giáp bị bắt và bị giam ở Huế cùng với bà Nguyễn Thị Quang Thái, em trai là Võ Thuần Nho và giáo sư Đặng Thai Mai là bố vợ sau này của Người... Cuối năm 1931, nhờ sự can thiệp của hội cứu tế đỏ của Pháp, Võ Nguyên Giáp được trả tự do nhưng lại bị ngăn cấm không cho ở lại Huế. Từ 1936 đến 1939, Võ Nguyên Giáp tham gia phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương, là sáng lập viên của Mặt trận và là Chủ tịch Ủy ban báo chí Bắc kỳ trong Đông Dương đại hội. Người tham gia thành lập và làm báo tiếng pháp Notre voix (Tiếng nói của chúng ta), Le Travail (Lao động), biên tập các báo Tin tức, Dân chúng.
Từ thầy giáo dạy sử thành nhà quân sự lỗi lạc: có một điều hết sức ấn tượng về Đại tướng là người không hề học qua một trường lớp quân sự nào, nhưng bằng sự nghiên cứu, tự rút kinh nghiệm bản thân, Đại tướng đã trở thành một vị tướng vĩ đại trong lịch sử nhân loại. Sau hội nghị Trung ương 8 của Đảng, Võ Nguyên Giáp được phân công huấn luyện quân sự cho Việt minh ở Cao Bằng, đánh dấu bước đường hoạt động quân sự đầu tiên của người.
Người anh cả của quân đội nhân Việt Nam, ngày 22/12/1944 thừa lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày nay với 34 chiến sĩ và có ngay hai chiến thắng Phay Khắt, Nà Ngần. Ngày 14/8/1945, Võ Nguyên Giáp trở thành Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, sau đó là Ủy viên Thường vụ Trung ương, tham gia Ủy ban khởi nghĩa. Ngày 16/8/1945, Đại tướng chỉ huy một cánh quân đánh Thái Nguyên và nhanh chóng dành được thắng lợi.
Điện Biên Phủ trận đánh khẳng định tên tuổi: Điện Biên Phủ - nơi chôn vùi mộng xâm lược của thực dân pháp - mang đậm dấu ấn tài năng quân sự của một vĩ nhân, tầm nhìn chiến lược của một thiên tài quân sự. Chiến thắng Điện Biên Phủ làm chấn động địa cầu, cái mà Pháp và Mỹ ca ngợi là pháo đài bất khả xâm phạm đã đổ vỡ trước mắt họ. Pháp buộc phải ký hiệp định Geneve vào ngày 21/7/1954. Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một trong 10 vị tướng được đánh giá là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, được đúc tượng tại một bảo tàng ở London.
|
|
Quyết định khó khăn nhất trong đời: Trung tướng Phạm Hồng Cư kể lại rằng dự kiến chiến dịch Điện Biên Phủ sẽ nổ ra vào ngày 20/01/1954 chứ không phải là ngày 13/3. Kế hoạch ban đầu được xác định là đánh nhanh thắng nhanh, nở hoa trong lòng địch với cái đuôi dài; như vậy chúng ta sẽ tập trung lực lượng đánh thẳng vào trung tâm Điện Biên Phủ sau đó phát triển lực lượng đi đánh chiếm các cứ điểm khác. Nhưng đó là lúc Pháp mới tăng cường lên Điện Biên; lực lượng còn ít, công sự còn dã chiến; nay Pháp đã tăng cường thêm lực lượng, công sự đã chuyển sang kiên cường vững chắc, nếu đánh theo lối đánh cũ sẽ rất mạo hiểm nhưng kế hoạch tác chiến đã được thông qua, mọi công tác chuẩn bị đã sẵn sàng chỉ chờ lệnh nổ súng nếu giờ thay đổi thì tâm lý chiến sĩ ra sao? Hàng loạt câu hỏi được đặt ra, nhưng nghĩ đến lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “trận này chỉ được thắng không được thua vì nếu thua coi như hết vốn”; vì đây là trận quyết định vị thế thắng hay thua của cả ta và Pháp trên bàn đàm phán tại hội nghị Geneve sắp tới. Cuối cùng Hội nghị cấp ủy đi đến quyết định kéo vào và lui quân về vị trí tập kết. Sau này Đại tướng thừa nhận đây là quyết định khó khăn nhất trong đời của người. Ý nghĩa của chiến thắng Điện Biên Phủ thì ai cũng rõ, nhưng cái đáng nói ở đây chính là nghệ thuật quân sự “chấn động năm châu” mang tên Võ Nguyên Giáp
Đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam: Ngày 20/01/1948, Bác Hồ đã ký sắc lệnh phong quân hàm cho một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy quân đội. Theo sắc lệnh này Đại tướng Võ Nguyên Giáp được trao quân hàm Đại tướng. Các đồng chí Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình được phong quân hàm Thiếu tướng; người được phong quân hàm cấp Trung tướng là đồng chí Nguyễn Bình. Tính đến nay người là vị đại tướng trẻ nhất trong quân đội ta và khó có thể phá vỡ. Lễ phong quân hàm cho Đại tướng được tổ chức ngày 28/5/1948 (đến nay trong quân đội mới chỉ có 12 vị Đại tướng).
Vai trò của Đại tướng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ: sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, những tưởng nhân dân ta được hưởng cuộc sống hòa bình; nhưng đế quốc Mỹ lật lọng đã âm mưu chia cắt đất nước ta, phá hoại hiệp định Geneve, dựng nên chính phủ phản động, đàn áp cách mạng. Trên cương vị là người đứng đầu Quân đội, Bí thư Quân ủy Trung ương, Đạị tướng đã có những quyết sách, tham mưu đúng đắn cho Đảng góp phần một lần nữa đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
Năm 1959, Đại tướng quyết định thành lập đoàn 559 mở đường Trường Sơn chi viện cho cách mạng miền Nam. Đại tướng cũng tham mưu cho Đảng cử những cán bộ vào trực tiếp chỉ đạọ cách mạng miền Nam như Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Đại tướng Lê Trọng Tấn , Thượng tướng Hoàng Minh Thảo… góp phần xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng miền Nam thành những Trung đoàn, Sư đoàn, Quân đoàn đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ, làm nên đại thắng mùa xuân 1975.
Nhiều người nói rằng vai trò của tướng Giáp khá mờ nhạt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, như cuộc tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu thân 1968, nhưng đâu biết rằng việc đó là nằm trong kế hoạch của ta nhằm làm kẻ địch mất cảnh giác. Thực chất Đại tướng và Bác Hồ đang chỉ đạo từ xa. Để có được chiến thắng Điện Biên Phủ trên không, tướng Giáp đã chỉ đạo cho quân chủng phòng không không quân chuẩn bị phương án đánh B52 từ năm 1968. Thất bại trong chiến dịch này buộc Mỹ phải chấp nhận ký Hiệp định Paris với những điều khoản nhân nhượng mà chính họ trước đó đã từ chối.
Năm 1975, Võ Nguyên Giáp đề xuất và ra quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh, mệnh lệnh nổi tiếng nhất của ông khi chỉ đạo chiến dịch Hồ Chí Minh hẳn phải ai cũng biết: "Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng". Điều đó thể hiện khả năng quân sự tài tình chọn thời cơ, nắm vững thời cơ, tận dụng thời cơ của Đại tướng và đi đến chiến thắng cuối cùng là lẽ tất nhiên.