KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, THỜI ĐẠI CỦA CHIẾN THẮNG 30 THÁNG 4

Năm nay, trong những ngày hướng đến kỷ niệm Chiến thắng lịch sử vĩ đại 30/4/1975, nhân dân ta đón mừng sự kiện này với nhiều niềm vui mới. Theo báo cáo của Chính phủ, kinh tế Việt Nam năm 2018 khởi sắc trên cả ba khu vực sản xuất, cung - cầu của nền kinh tế cùng song hành phát triển.

NHẬN DIỆN VÀ NGĂN NGỪA THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG LÒNG YÊU NƯỚC ĐỂ KÍCH ĐỘNG NGƯỜI DÂN XUỐNG ĐƯỜNG BIỂU TÌNH, GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Người yêu nước chân chính là người biết sử dụng pháp luật, đạo đức, truyền thống tốt đẹp để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, đồng thời phải biết tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Nhận diện được phương thức, thủ đoạn lợi dụng lòng yêu nước để kích động nhân dân làm việc xấu chính là nhằm đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp, đồng thời tránh được sự lợi dụng đó để gây ra rối loạn xã hội, phức tạp tình hình.

Thông cáo báo chí kỳ họp 32 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Từ ngày 03 đến 06/12/2018 tại Hà Nội, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã họp kỳ 32. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương chủ trì kỳ họp.

UBKTTW kết luận vụ AVG: Sai phạm của ông Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn là rất nghiêm trọng

UBKTTW vừa họp kỳ 26 kết luận vụ AVG có những vi phạm của Ban cán sự đảng Bộ TT-TT, ông Nguyễn Bắc Son, ông Trương Minh Tuấn, ông Phạm Đình Trọng, của Ban Thường vụ Đảng ủy Mobifone và các ông Lê Nam Trà, Cao Duy Hải là rất nghiêm trọng.

Bốn kỳ vọng thay đổi lớn về công tác cán bộ sau 4 ngày Hội nghị T.Ư 7

Sau 4 ngày làm việc, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng được dư luận đặc biệt quan tâm, trong đó có công tác cán bộ, bởi đây là vấn đề “nóng” trong tình hình hiện nay.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Philippines. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Philippines. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2019

PHÁN QUYẾT VỀ BIỂN ĐÔNG, SAU 3 NĂM NHÌN LẠI

Ngày 12/7 vừa qua đánh dấu 3 năm kể từ khi Tòa Trọng tài Thường trực (Permanent Court of Arbitration - PCA) ở The Hague (Hà Lan) ra phán quyết bác bỏ cái gọi là “chủ quyền lịch sử” của Trung Quốc đối với vùng biển trong đường 9 đoạn trên Biển Đông và khẳng định đó là “không có cơ sở pháp lý”.

PHÁN QUYẾT VỀ BIỂN ĐÔNG, SAU 3 NĂM NHÌN LẠI
Tòa Trọng tài Thường trực công bố phán quyết về Biển Đông, năm 2016.
Cùng nhìn lại các diễn biến thời gian qua để thấy rõ hiện trạng và thực chất vấn đề khi có quốc gia thì đang sa lầy trong các toan tính hậu phán quyết và Trung Quốc vẫn tiếp tục chính sách áp đặt chủ quyền một cách thô bạo và trái với luật pháp quốc tế.
Ngày 22/01/2013, Philippines đã khởi đầu quy trình trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) tại PCA. Bất chấp sự phản đối và vận động tẩy chay của Trung Quốc, ngày 12/7/2016, PCA ra phán quyết xác định rằng yêu sách chủ quyền về “đường 9 đoạn” của Bắc Kinh là vô lý và vi phạm UNCLOS.
Phán quyết của tòa PCA kết luận: “Không có bằng chứng nào cho thấy Trung Quốc trong lịch sử đã từng “độc quyền kiểm soát” các vùng biển và các nguồn tài nguyên tại đây”.

Philippines: Rối rắm các tính toán

Tuy nhiên, đến tháng 10/2016, sau khi thắng cử, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte bất ngờ có chuyến thăm Trung Quốc cấp nhà nước. Trước khi khởi hành, ông Duterte có cuộc trả lời phỏng vấn Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV), trong đó đề cập đến các vấn đề nhạy cảm trong quan hệ hai nước. Tổng thống Duterte cho biết ông hy vọng loại bỏ hoàn toàn “vùng xám” trong quan hệ song phương, mà một phần quan trọng là vấn đề Biển Đông.
Cùng với tuyên bố này, nhà lãnh đạo Philippines đã thực hiện chính sách “gác lại” phán quyết PCA để cải thiện quan hệ với Bắc Kinh, đổi lấy các lợi ích kinh tế. Sau chuyến đi, ông Duterte về nước với những cam kết của Bắc Kinh sẽ cho vay cũng như đầu tư khoảng 24 tỷ USD, kể cả cho các dự án quy mô đầy tham vọng của ông Duterte để canh tân cơ sở hạ tầng Philippines.
Tuy nhiên, số liệu Chính phủ Philippines đã công bố, chỉ có 3 dự án, 2 chiếc cầu và 1 cơ sở thủy lợi, trị giá chung là 167 triệu USD, là đã bắt đầu được xúc tiến. Phần còn lại, gồm 3 dự án đường sắt, 3 đường cao tốc và 9 cây cầu, vẫn nằm trong giai đoạn quy hoạch và phân bố ngân sách, hoặc đang chờ Bắc Kinh phê duyệt tài chính, hoặc đang trong giai đoạn chọn nhà thầu Trung Quốc.
Theo số liệu của Cục Thống kê Philippines, trong nửa đầu năm 2018, cam kết đầu tư vào Philippines của Trung Quốc chỉ đạt 33 triệu USD, bằng 40% của Mỹ và 1/7 các cam kết của Nhật Bản, theo xu hướng tương tự như năm trước đó. Giao thương giữa Trung Quốc và Philippines đã tăng đáng kể nhưng dữ liệu cho thấy phần lớn chỉ có lợi cho Trung Quốc.
Có thể nói, cho tới giờ chỉ một phần nhỏ các cam kết của Trung Quốc cho Philippines trở thành hiện thực. Bản thân ông Duterte bị dư luận trong nước chỉ trích. Giới quan sát cho rằng nếu ông không chứng minh được là chính sách ngoại giao nhân nhượng của ông đã mang về lợi ích kinh tế cho Philippines thì vị thế của ông sẽ bị suy yếu trước các cuộc bầu cử giữa kỳ năm 2019, mà kết quả có thể định đoạt sự thành công hay thất bại nhiệm kỳ tổng thống của ông.

Sự áp đặt chủ quyền vẫn tiếp diễn

Tròn 3 năm kể từ ngày PCA ra phán quyết, theo đánh giá của Sáng kiến Minh bạch hàng hải châu Á (AMTI) thuộc Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế (CSIS) công bố ngày 12/7, nhìn chung, Trung Quốc đã không chịu tuân thủ gần như toàn bộ nội dung của phán quyết.
Cụ thể, các quan chức Trung Quốc dù đã ít đề cập hơn về cái gọi là “đường 9 đoạn” như là cơ sở cho yêu sách của họ đối với Biển Đông nhưng họ tiếp tục tuyên bố có chủ quyền lịch sử (vốn không rõ ràng) đối với hầu hết các vùng biển và đáy biển ở Biển Đông. Chính vì dựa trên cơ sở này mà ngư dân Trung Quốc tiếp tục hoạt động phi pháp trong các vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Philippines và Indonesia. Trung Quốc tiếp tục xây dựng các đảo nhân tạo và lắp đặt các trang thiết bị tại Đá Vành Khăn.
Trắng trợn hơn, Trung Quốc tiếp tục tuyên bố lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương từ tháng 5 đến tháng 8 hằng năm, bao gồm phần lớn trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines và Việt Nam.
Ngay trước dịp kỷ niệm 3 năm ngày PCA ra phán quyết, Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 11/7 đã có tuyên bố lên án Trung Quốc phản bội lời hứa không quân sự hóa Biển Đông đã đưa ra năm 2015. Mỹ đồng thời tái khẳng định việc Washington cực lực phản đối các nỗ lực của Bắc Kinh nhằm áp đặt các yêu sách chủ quyền “bất hợp pháp” ở Biển Đông.
Trung Quốc ngay từ đầu đã từ chối tham gia vào tiến trình vụ kiện, chủ yếu với lý do PCA không có thẩm quyền. Sâu xa hơn, Trung Quốc dường như cảm thấy không tự tin với cơ sở pháp lý trong các yêu sách trên Biển Đông của mình và lo sợ bị thua kiện, bị ràng buộc bởi các phán quyết khiến quyền tự do hành động bị hạn chế. Điều này là dễ hiểu khi Trung Quốc đang muốn củng cố sức mạnh hàng hải và vị thế chiến lược của mình trên Biển Đông nhằm giành ưu thế trong cạnh tranh chiến lược vốn đang ngày càng gay gắt với Mỹ.
Việc Trung Quốc từ chối tham gia vụ kiện đã bị công luận nhiều nước trên thế giới chỉ trích bởi nó thể hiện sự thiếu thiện chí và coi thường luật pháp quốc tế, nhất là khi Trung Quốc vẫn luôn khẳng định mong muốn trở thành một cường quốc có trách nhiệm. Tiếp đó, Trung Quốc phủ nhận tính pháp lý trong phán quyết của PCA và tiếp tục tiến hành các hành động mang tính khiêu khích trên Biển Đông, cũng như tiếp tục hoàn thiện và quân sự hóa các đảo nhân tạo tại Trường Sa.
Tựu trung lại, hành động phủ nhận phán quyết PCA và tiếp tục sự áp đặt chủ quyền một cách thô bạo ở Biển Đông của Trung Quốc được giới quan sát đánh giá là “lợi bất cập hại” khi không chỉ ảnh hưởng tới uy tín quốc tế của Trung Quốc mà còn có thể làm hại các lợi ích hàng hải của nước này không chỉ ở Biển Đông mà còn ở cả các vùng biển khác.
Trong bối cảnh đó, các nước có lợi ích trong khu vực cần thiết phải đề cao tầm quan trọng trong việc thực thi phán quyết của PCA, nỗ lực đạt được một Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) ràng buộc pháp lý giữa Trung Quốc và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Ngoài ra, cần phải có các biện pháp giảm thiểu căng thẳng trong vùng biển này và khẳng định vai trò của luật pháp quốc tế và xây dựng một trật tự khu vực dựa trên các quy tắc.
Nam Sơn

Thứ Năm, 2 tháng 11, 2017

VIỆT TÂN - ĐÃ NGU CÒN TỎ RA NGUY HIỂM


Ngày 12 tháng 7 vừa qua, Tòa trọng tài quốc tế ở La hay, Hà Lan đã chính thức công bố phần thắng trong vụ kiện giữa Trung Quốc và Philippines trong vấn đề tranh chấp một số đảo ở Biển Đông thuộc về Philippines. Thực tế, phán quyết của tòa có rất nhiều điều bất lợi cho Việt Nam, và trên lý thuyết pháp lý chúng ta đã mất đi khá nhiều đảo, gây ra rất nhiều yếu tố đặc biệt khó khăn khi Việt Nam đấu tranh đòi chủ quyền. Nhưng thiên hạ lại không mấy ai thèm để ý đến, chỉ với một chiêu đơn giản của phương Tây đã làm cho dư luận trong nước lên cơn sốt, phát rồ vì sung sướng sau cái phán quyết vô thưởng vô phạt ấy, đồng thời nở rộ lên biết bao nhiêu cái gọi là “phong trào ủng hộ công lí được thực thi”. Cũng chính từ sự ngu ngơ dại khờ không hiểu chuyện của một cơ số người mà “con chó” Việt Tân lại nhảy xổ vào như bao lần để rồi tung hỏa mù dư luận, kiếm chác trên chính sự thiếu hiểu biết của nhân dân ta. Liên tiếp trong mấy ngày gần đây, Việt Tân đã ồ ạt tung  tin kiểu“ủng hộ Philippines”, “ủng hộ công lí”, kêu gọi Việt Nam theo chân Phi kiện Trung Quốc, hay mới đây nhất là lời trần tình “nhục nhã” của Việt Tân “thay lời nhân dân Việt Nam”.
viet tan
Việt Tân lấy tư cách gì để đại diện cho nhân dân Việt Nam ?
          Những bài viết mới đọc qua cũng đủ khiến “nổi da gà” khi mà từ trước đến nay, Việt Tân luôn được biết đến với hình ảnh “một con bạch tuộc nhiều vòi”, sử dụng chiêu bài chiến lược là lợi dụng những vấn đề trong nước để xuyên tạc, bịa đặt, hướng lái dư luận và chính kiến của người dân vào con đường chống đối Đảng, nhà nước, vùi dập, nói xấu chế độ, bộ máy chính quyền để rồi “hút máu” dân tộc Việt Nam và kiếm chác từ những “người cha nuôi” bu Mỹ. Ấy vậy mà lần này, từ một kẻ “lòng lang dạ sói” như thế, Việt Tân lại giở giọng “ủng hộ cho hòa bình và chính nghĩa” đã thực sự khiến cho nhiều người không khỏi thốt lên vì sự nực cười đến khinh bỉ cho vụ việc “mèo khóc chuột”, “nước mắt cá sấu” này.
Liệu Việt Tân có thấy hổ thẹn chút nào không khi xúi giục người dân chạy đi ủng hộ cho cái đất nước “ăn cướp” các đảo Thị Tứ và Song Tử Đông của dân tộc Việt Nam rồi ngang nhiên đặt quận huyện trái phép, biến nó thành lãnh thổ của mình? Việt Tân có biết đến cảm giác “nhục nhã” nữa không khi chính từ đây, cái đất nước mà chúng đang kêu gọi ủng hộ đó sẽ có thêm cơ sở pháp lý để tiếp tục ăn cướp công khai biển đảo của Việt Nam, để rồi lấy đất của dân tộc Việt Nam ra mà đàm phán “buôn chia” với Trung Quốc?
Thế nào là nhận giặc làm cha, thế nào là dẫm đạp lên mồ mả của các liệt sĩ đã ngã xuống vì để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ Quốc, thế nào là lợi dụng lòng yêu nước để “chó dại hóa” dư luận, thế nào là đeo silip vào mồm để rồi vì tiền mà sủa càn tiếp tay cho bọn cướp nước? Thiết nghĩ rằng, Việt Tân thừa hiểu. Bởi chính họ có yêu thương quan tâm cái khỉ khô gì tới đất nước Việt Nam này, cái Việt Tân cần chẳng phải là một sự bảo trợ lâu dài để dùng cái mác “dân chủ nhân quyền” ngửa tay xin tiền rồi sống cho qua ngày đó sao!
Rõ ràng, ngu không phải là cái tội, nhưng thể hiện cái ngu đó ra trước mặt người khác là tội rất lớn. Việt Tân có quyền ngu, bởi đó là dân chủ, là nhân quyền, không ai dám và không ai thèm tranh giành “cái quyền ngu” với Việt Tân cả. Cuộc đời cho phép, luật pháp không cấm ai ngu, cũng chẳng đánh thuế hay truy tố ai vì điều đó, tuy nhiên, lỡ may cái ngu đó làm cho người khác khi nhìn thấy phải cười rất nhiều, cười vỡ bụng chết thì làm sao? Càng nói càng lộ cái ngu, lộ cái “bản chất thối tha” của mình, không những không làm cho dân chúng bị kích động, bị mắc bẫy mà còn làm trò hề cho xã hội tẩy chay lên án thì lấy cái gì ra “làm chứng” mà đổi tiền với chóp bu Mỹ đây hỡi Việt Tân ? Là vì cớ gì hay là vì ngày trước bố mẹ chúng nó lỡ hiếp dâm con gì đó mà loài người hay nuôi nên mới lỡ sinh ra cái loại con cái ngu như vậy?
Ngu quá Việt Tân ơi !!!

Thứ Hai, 16 tháng 10, 2017

Bài học đối đầu với Trung Quốc trên Biển Đông của Việt Nam và Indonesia


Indonesia và Việt Nam cho thấy rằng có thể phân chia rạch ròi giữa việc cương quyết bảo vệ chủ quyền và quyền của một nước trên Biển Đông. Đã đến lúc Manila và Kuala Lumpur phải học hỏi từ những người hàng xóm của mình về cách đứng lên chống lại các chiến thuật “vùng xám” của Bắc Kinh thông qua một quyết tâm được thể hiện rõ ràng.

Bài viết của tác giả Koh Swee Lean Collin, nghiên cứu viên Chương trình An ninh Biển, Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam, Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore. Bài viết được đăng trên The National Interest.
Các động thái của Trung Quốc và Ấn Độ nhằm xuống thang căng thẳng về tình hình bế tắc tại Doklam đã làm xuất hiện những bình luận về cách thức đối phó với các chiến lược cưỡng ép của Bắc Kinh. Một số người có thể lập luận rằng xét cho cùng, Ấn Độ có thể được coi là đối thủ ngang hàng với Trung Quốc về sức mạnh tương đối, đặc biệt là quân sự. Cả hai đều là những quốc gia có vũ khí hạt nhân và nếu bị đẩy vào cuộc chiến tranh biên giới mới, họ có thể tính đến việc leo thang hành động vũ trang vượt ra ngoài ngưỡng chiến tranh toàn diện, và tệ hơn là rơi vào một cuộc xung đột hạt nhân.
Những bài học của Ấn Độ về cách đối phó với sức ép từ Trung Quốc quả thực thú vị. Nhưng nếu nhìn vào các đối thủ của Bắc Kinh trong bối cảnh có sự bất cân xứng rõ ràng về sức mạnh thì sao? Có thể lập tức nghĩ ngay đến các đối thủ ở Đông Nam Á của Trung Quốc trên Biển Đông. Khu vực đó bao gồm các quốc gia-dân tộc nhỏ hơn, yếu hơn, những nước không có hàng loạt công cụ sức mạnh và các hình thức đòn bẩy chiến lược khác như của Ấn Độ. Có thể kết luận rằng các nước Đông Nam Á này là những lựa chọn dễ dàng để Bắc Kinh thực hiện thành công chiến lược cưỡng ép của mình.
Các đối thủ ở Đông Nam Á có phải là lựa chọn dễ dàng cho Trung Quốc?
Trên thực tế, không lâu sau khi Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đưa ra một tuyên bố chung về Biển Đông, điều đó như một sự nhắc nhở nhẹ nhàng dành cho Bắc Kinh. Bên cạnh đó, cả 2 bên đã chính thức thông qua khuôn khổ cho một bộ quy tắc ứng xử được đề xuất nhằm giải quyết tranh chấp sau khi tin một số tàu Trung Quốc được nhìn thấy xuất hiện gần đảo Thị Tứ do Philippines chiếm đóng. Một tàu kiểm ngư của Philippines được cho là cũng bị quấy rối.
Đây chính là điểm khác biệt giữa phản ứng của Manila và sự phản đối mau lẹ và quyết đoán của Ấn Độ với cái được cho là nỗ lực của Trung Quốc nhằm làm thay đổi nguyên trạng ở Doklam. Đúng với phong cách đặc trưng của Chính quyền Rodrigo Duterte thân Bắc Kinh, Bộ trưởng Ngoại giao Philippines Alan Peter Cayetano đã không xác nhận cũng như không phủ nhận báo cáo này. Thay vào đó, ông đã hạ thấp tầm quan trọng của nó. Ông nhận xét: “Chỉ sự hiện diện của các tàu thì không có ý nghĩa gì”.
Người ta có thể cảm thông với nỗ lực của Manila nhằm bỏ qua trò hề mới của Trung Quốc trong vùng biển đang tranh chấp, vì nước này cần phải đối mặt với những thách thức an ninh trước mắt khác do những kẻ khủng bố và trùm ma túy gây ra. Duterte đã xoay từ Washington sang Bắc Kinh để có được viện trợ và đầu tư cho phát triển kinh tế-xã hội, bao gồm chương trình cơ sở hạ tầng toàn quốc “Xây, Xây, Xây” rình rang của ông, chương trình mà ông đã quảng bá tại Diễn đàn “Vành đai và Con đường” do người bạn mới hào phóng của ông, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, chủ trì.
Nói một cách đơn giản, một vụ ầm ĩ ở Biển Đông không phục vụ cho lợi ích của chính quyền ông. Duterte và các cộng sự thân thiết của ông, chẳng hạn như một Cayetano cũng ủng hộ Trung Quốc không kém, không muốn làm xáo trộn tình hình và gây ra nguy cơ khiến Bắc Kinh rút lại những củ cà rốt mà họ đã hứa hẹn với Manila. Do đó có lẽ việc Philippines đầu hàng Trung Quốc là không thể tránh khỏi, không chỉ gác lại phán quyết của Tòa trọng tài vốn đã trao cho nước này chiến thắng áp đảo về pháp lý trước nước láng giềng phương Bắc lớn hơn và hùng mạnh hơn nhiều; mà nếu cần thiết, họ sẽ phải chịu đựng trong im lặng trước điều mà chuyên gia Robert Haddick cho là những chiến lược “vùng xám cắt lát salami” vùng xám thường được Bắc Kinh sử dụng để đánh bại các đối thủ của mình trong vùng biển tranh chấp.
Các chiến thuật “vùng xám” của Trung Quốc
Durtete không chỉ có một mình. Ông có thể tìm được một người bạn tâm giao thân thiết là Thủ tướng Malaysia Najib Razak, người mà khi cuộc tổng tuyển cử đang tới gần, cũng đã quay sang Bắc Kinh vì viện trợ và đầu tư để chống đỡ cho vị thế của đảng cầm quyền của ông. Najib đã nỗ lực lấy lòng Trung Quốc, chẳng hạn như thông qua chính sách “ngoại giao sầu riêng”. Ông đã ngăn cấm những nhà phê bình trong nước lo sợ rằng ông đang bán rẻ chủ quyền của Malaysia để đổi lấy sự bố thí của Trung Quốc, thậm chí đến mức bộc lộ sự mâu thuẫn – dưới danh nghĩa không gây đối đầu – về các cuộc xâm nhập thường xuyên của cảnh sát biển Trung Quốc gần các cấu trúc địa hình nằm trong quyền tài phán trên biển của Malaysia.
Liệu đây có phải vận mệnh đã định trước của các quốc gia nhỏ và yếu hơn như Philippines và Malaysia, là đầu hàng trước các chiến thuật “vùng xám” của Trung Quốc hay không? Ban Cố vấn an ninh quốc tế đã xác định các cách tiếp cận “vùng xám” trong báo cáo tháng 1/2017 lên Bộ Ngoại giao Mỹ là “sử dụng kỹ thuật để đạt được các mục tiêu của một quốc gia và làm nản lòng các đối thủ của mình bằng cách sử dụng các công cụ sức mạnh – thường có tính chất không cân xứng và mơ hồ – mà không phải sử dụng trực tiếp các lực lượng quân sự thông thường đã biết”. Chương trình xây dựng đảo của Trung Quốc trên Biển Đông được coi là một ví dụ như vậy, chưa kể chính sách ngoại giao pháo hạm của họ, trong đó bao gồm sử dụng lực lượng dân quân đánh bắt cá nổi tiếng của họ.
Manila và Kuala Lumpur nằm vừa vặn trong hạng mục các đối thủ “dễ bảo” mà Bắc Kinh vô cùng khao khát – không muốn leo thang các tranh chấp của họ vượt ra ngoài “giới hạn đỏ” hay chiến tranh nóng toàn diện, và không cản trở nhiệm vụ tìm kiếm lợi ích của họ từ Trung Quốc. Nhưng trước khi bắt đầu cho rằng phản ứng của Malaysia và Philippines đối với Trung Quốc là đang lập ra chuẩn mực tại Đông Nam Á, chúng ta phải cân nhắc liệu có cần thiết phải kết hợp một mặt là giữ vững chủ quyền và quyền của một nước, mặt khác là thúc đẩy quan hệ kinh tế hay không.
Indonesia và Việt Nam, vốn có lợi ích lớn trên Biển Đông, đã chứng tỏ rằng không có sự phân đôi sai lầm đó và không phải là trường hợp để Bắc Kinh có thể áp dụng như Philippines và Malaysia.
Phản ứng của Indonesia trước Bắc Kinh
Có thể nói, quan hệ Trung Quốc-Indonesia đã nở rộ trong khoảng một thập kỷ qua. Jakarta không chỉ tìm kiếm đầu tư từ Bắc Kinh, mà thậm chí họ còn mua vũ khí của Trung Quốc. Tuy vậy, họ đã không trở thành một kẻ nhu nhược khi sự cố tàu đánh cá nổ ra vào tháng 3/2016. Năm đó, cảnh sát biển Trung Quốc đã đâm thủng tàu đánh cá Kway Fey 10078 của nước này ngay trong vùng biển thuộc quyền kiểm soát của Jakarta ngoài khơi đảo Natuna, can thiệp mạnh mẽ vào việc Indonesia thực thi luật thủy sản. Thay vì hạ nhiệt vụ việc, Tổng thống Joko Widodo, mà tính hợp pháp trong tầm nhìn “trục biển toàn cầu” của ông có nguy cơ bị chệch hướng bởi bất kỳ điều gì ít hơn quyết tâm chống lại sự xâm phạm của Bắc Kinh, đã tới thăm đảo Natuna trên một con tàu chiến.
Trong một dấu hiệu còn đáng ngại hơn rằng Jakarta sẽ không dung thứ cho hành động vô lý từ Bắc Kinh, Hải quân Indonesia đã tăng cường sự hiện diện của mình trên quần đảo này. Tháng 6 cùng năm, hải quân nước này đã nổ súng cảnh cáo một số tàu đánh cá Trung Quốc đang hoạt động bất hợp pháp trong vùng biển của Natuna, được cho là đã làm bị thương một ngư dân trong quá trình này. Bắc Kinh đã phản đối, nhưng Jakarta không hề nao núng. “Chúng tôi sẽ không ngần ngại hành động quyết liệt chống lại các tàu nước ngoài, bất kể tàu đó mang cờ và quốc tịch nước nào, khi họ vi phạm lãnh thổ của Indonesia”, người phát ngôn của Hải quân Indonesia, Đô đốc Edi Sucipto, phát biểu sau vụ việc. Kể từ đó, không có thêm báo cáo nào về sự vi phạm của Trung Quốc.
Nhưng sau đó không có hệ quả nào lớn. Đầu tư của Trung Quốc vào Indonesia không bị ảnh hưởng; trên thực tế, những khoản đầu tư này đã tăng 291% từ tháng 1-9/2016, đạt 1,6 tỷ USD vào tháng 1/2017. Tuy vậy, Jakarta muốn báo hiệu cho Bắc Kinh rằng đừng nên đùa với họ. Tháng 10/2016, Jakarta đã tìm kiếm thêm nhiều khoản đầu tư hơn từ Nhật Bản và 1 tháng sau, tuyên bố họ ưu tiên Nhật Bản để cùng ký kết một dự án tàu bán cao tốc. Tháng 1/2017, cả 2 nước đã nhất trí tăng cường hợp tác an ninh hàng hải. Bắc Kinh đã tính toán hết sức sai lầm rằng chiến thuật “vùng xám” của họ sẽ chống lại Indonesia hiệu quả, như những gì họ đã làm vào tháng 3/2013, do đó đã đẩy Indonesia thành đối thủ của Trung Quốc.
Các mối quan hệ song phương đã dần khôi phục, với việc Indonesia thu được thành công sự quan tâm lớn hơn của Trung Quốc để tăng cường đầu tư. Đồng thời, quốc gia Đông Nam Á này cũng không hề lơ là lợi ích trên Biển Đông của mình, thậm chí đổi tên một phần ở vùng biển này thành biển Bắc Natuna. Ngoài việc chỉ trích động thái này, Bắc Kinh đã ngừng trả đũa.
Cuộc đấu tranh của Việt Nam chống lại Trung Quốc
Còn Việt Nam thì sao? Từ thời xa xưa, quốc gia Đông Nam Á can trường này đã duy trì thành tích đáng nể là chống sự gây hấn của Trung Quốc. Khi Trung Quốc đặt giàn khoan dầu biển sâu của nước này, Hải Dương-981, trong vùng biển ngoài khơi Việt Nam và gần quần đảo Hoàng Sa vào tháng 5/2014, Hà Nội đã phản ứng quyết liệt – và ít nhất cũng tương xứng với trò hề “vùng xám” của Bắc Kinh. Họ đã cẩn thận tránh cử các lực lượng quân sự đến đối mặt với Trung Quốc – thay vào đó triển khai các tàu cảnh sát biển và tàu kiểm ngư – và thậm chí cả lực lượng dân quân biển của riêng họ.
Thế bế tắc này kéo dài cho đến khi chính sách ngoại giao “kênh sau” – chủ yếu là giữa 2 đảng cộng sản – dẫn đến việc cả 2 bên đều lùi bước vào cuối tháng 7. Tuy vậy, Hà Nội có lý do để tự hào, cho dù phải trả giá. Thế bế tắc kéo dài buộc Việt Nam phải ngừng việc bảo dưỡng định kỳ các tàu cảnh sát biển và tàu kiểm ngư, gây ảnh hưởng đến khả năng sẵn sàng hoạt động của chúng cho các nhiệm vụ khác. Nếu thế bế tắc duy trì, Việt Nam, vốn bất lợi về khả năng vũ lực, có thể sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Dù vậy, nước cờ của Hà Nội đã có hiệu quả. Bắc Kinh đã tôn trọng hơn đối thủ từ lâu của mình ở Đông Nam Á.
Việt Nam không phải chịu tác động từ tình trạng bế tắc. Việc có quan hệ kinh tế với Trung Quốc, với đặc trưng là thâm hụt thương mại có lợi cho Trung Quốc, không ngăn Việt Nam thử thách người láng giềng phương Bắc hùng mạnh của mình hết lần này đến lần khác. Tháng 9-10/2014, các nhà lãnh đạo cấp cao của Việt Nam và Ấn Độ đã trao đổi các chuyến viếng thăm lẫn nhau và ký kết nhiều hiệp định, bao gồm hợp tác an ninh quốc phòng và hàng hải chặt chẽ hơn. Gây quan tâm đặc biệt là một hiệp ước kêu gọi công ty ONGC Videsh Limited thuộc sở hữu nhà nước của Ấn Độ “mở rộng sự hiện diện của họ ở Việt Nam và củng cố hơn nữa hợp tác trong việc thăm dò và các lĩnh vực khác giữa 2 nước trong ngành năng lượng”. Cần nhớ lại rằng Trung Quốc triển khai giàn khoan dầu là để đáp lại việc Việt Nam đề nghị cung cấp thêm các lô ngoài khơi cho công ty Ấn Độ ở những vùng biển Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền.
Trong những năm sau đó, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh hợp tác với các đối thủ cạnh tranh của Trung Quốc như Ấn Độ và Nhật Bản. Tuy nhiên họ không phải chịu bất cứ phản ứng nào của Trung Quốc. Trên thực tế, thương mại biên giới giữa hai nước tiếp tục nở rộ. Đáng chú ý là thương mại với tỉnh Quảng Tây đã tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước lên tới gần 6,9 tỷ USD trong nửa đầu năm 2015 – mức cao nhất của bất kỳ thành phố biên giới nào ở Trung Quốc. Đầu năm 2017, Bắc Kinh vẫn là đối tác thương mại lớn nhất của Hà Nội; Hà Nội đã tăng lượng xuất khẩu sang Bắc Kinh 34,4% so với cùng kỳ năm trước.
Indonesia và Việt Nam cho thấy rằng có thể phân chia rạch ròi giữa việc cương quyết bảo vệ chủ quyền và quyền của một nước trên Biển Đông, và việc tăng cường quan hệ kinh tế với Bắc Kinh. Đã đến lúc Manila và Kuala Lumpur phải học hỏi từ những người hàng xóm của mình về cách đứng lên chống lại các chiến thuật “vùng xám” của Bắc Kinh thông qua một quyết tâm được thể hiện rõ ràng.
Theo NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG