KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, THỜI ĐẠI CỦA CHIẾN THẮNG 30 THÁNG 4

Năm nay, trong những ngày hướng đến kỷ niệm Chiến thắng lịch sử vĩ đại 30/4/1975, nhân dân ta đón mừng sự kiện này với nhiều niềm vui mới. Theo báo cáo của Chính phủ, kinh tế Việt Nam năm 2018 khởi sắc trên cả ba khu vực sản xuất, cung - cầu của nền kinh tế cùng song hành phát triển.

NHẬN DIỆN VÀ NGĂN NGỪA THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG LÒNG YÊU NƯỚC ĐỂ KÍCH ĐỘNG NGƯỜI DÂN XUỐNG ĐƯỜNG BIỂU TÌNH, GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Người yêu nước chân chính là người biết sử dụng pháp luật, đạo đức, truyền thống tốt đẹp để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, đồng thời phải biết tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Nhận diện được phương thức, thủ đoạn lợi dụng lòng yêu nước để kích động nhân dân làm việc xấu chính là nhằm đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp, đồng thời tránh được sự lợi dụng đó để gây ra rối loạn xã hội, phức tạp tình hình.

Thông cáo báo chí kỳ họp 32 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Từ ngày 03 đến 06/12/2018 tại Hà Nội, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã họp kỳ 32. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương chủ trì kỳ họp.

UBKTTW kết luận vụ AVG: Sai phạm của ông Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn là rất nghiêm trọng

UBKTTW vừa họp kỳ 26 kết luận vụ AVG có những vi phạm của Ban cán sự đảng Bộ TT-TT, ông Nguyễn Bắc Son, ông Trương Minh Tuấn, ông Phạm Đình Trọng, của Ban Thường vụ Đảng ủy Mobifone và các ông Lê Nam Trà, Cao Duy Hải là rất nghiêm trọng.

Bốn kỳ vọng thay đổi lớn về công tác cán bộ sau 4 ngày Hội nghị T.Ư 7

Sau 4 ngày làm việc, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng được dư luận đặc biệt quan tâm, trong đó có công tác cán bộ, bởi đây là vấn đề “nóng” trong tình hình hiện nay.

Hiển thị các bài đăng có nhãn campuchia. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn campuchia. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 6 tháng 1, 2019

Không thể xuyên tạc giá trị cao cả chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng

     Có những sự kiện lịch sử khi thời gian trôi về quá khứ càng xa thì ý nghĩa, giá trị của nó càng lớn lao. Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc (1975-1979) và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng của dân tộc Việt Nam là một trong những sự kiện như vậy.

     Việt Nam - Lào và Campuchia là ba nước nước láng giềng, trên cùng bán đảo Đông Dương có mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết cùng chống kẻ thù chung. Đặc biệt, 3 dân tộc đã kề vai sát cánh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược để giành độc lập, tự do cho dân tộc.

     Tuy nhiên, từ những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1970-1975) cho đến năm 1979, tập đoàn Pol Pot đã phản bội nhân dân Campuchia và phá hoại truyền thống đoàn kết, hữu nghị giữa Việt Nam-Campuchia. Trong nước, Pol Pot thực hiện chính sách diệt chủng; đồng thời chúng thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam của Việt Nam. Thực hiện quyền tự vệ chính đáng, Quân tình nguyện Việt Nam đã bất chấp mọi hy sinh, gian khổ, phối hợp với lực lượng vũ trang (LLVT) Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia mở cuộc tổng tiến công giải phóng thủ đô Phnom Penh (7-1-1979) và toàn bộ đất nước Campuchia (17-1-1979).

     Vừa qua, trong khi hai dân tộc Việt Nam-Campuchia vui mừng, phấn khởi kỷ niệm 40 năm Ngày chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam Việt Nam và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng, thì đây đó trên internet và mạng xã hội vẫn có những tiếng nói lạc lõng xuyên tạc cuộc chiến tranh này. Họ tán phát luận điệu cũ rích: “Cuộc tấn công của quân đội Việt Nam (giải phóng Campuchia) là cuộc chiến tranh xâm lược”; Việt Nam đã “lấn chiếm Campuchia cả trên đất liền và biển, đảo”... 

Không thể xuyên tạc giá trị cao cả chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng

     Vậy đâu là nguyên nhân cuộc chiến tranh này? Bản chất và ý nghĩa cao cả của cuộc phản công bảo vệ chủ quyền quốc gia; giải phóng dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, diệt vong là gì? 

     Nguyên nhân của cuộc chiến tranh

     Theo nhiều tài liệu và chứng cứ còn lại, trong 3 năm (từ tháng 4-1975 đến cuối năm 1978), chính quyền Pol Pot đã thực hiện chính sách chính trị, kinh tế, xã hội hoang dã: Hủy bỏ tất cả quyền con người, quyền công dân-từ quyền sống đến các quyền tự do tối thiểu. Để làm “trong sạch dân cư”, chúng đã thực hiện chính sách giết hàng triệu người một cách dã man (đập chết bằng cuốc, xẻng, mổ bụng, moi gan... ). Gần 3 triệu người Campuchia đã bị giết chỉ trong gần 3 năm. Chúng xóa bỏ mọi cơ sở xã hội của một nền văn minh (như xóa bỏ thành thị, xóa bỏ sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, xóa bỏ quan hệ hàng hóa-tiền tệ) đẩy cả dân tộc Campuchia vào thảm họa diệt vong, đồng thời xóa sổ cả nền văn hóa, văn minh của một dân tộc có bề dày hàng nghìn năm.

     Với Việt Nam, Pol Pot ra sức vu khống: “Việt Nam xâm lược, cướp đất, cướp đảo… của Campuchia”. Chúng kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, giết nhiều kiều bào Việt Nam; đòi hoạch định lại biên giới Việt Nam-Campuchia. Pol Pot tuyên bố Việt Nam là “kẻ thù truyền kiếp”, “kẻ thù số 1”, là “tai họa lớn nhất” của dân tộc Campuchia… Ngay sau khi Việt Nam hoàn toàn giải phóng, chúng tấn công đảo Phú Quốc (ngày 3-5-1975); tấn công đảo Thổ Chu (ngày 10-5-1975). Tại đây, chúng bắt và giết hơn 500 dân thường. Trên đất liền, chúng khiêu khích, tập kích vào bộ đội biên phòng, tự tiện di dời cột mốc biên giới ở các tỉnh: Tây Ninh, Kon Tum, Đắc Lắc…

     Cuộc chiến tranh này đã được chính quyền Pol Pot chuẩn bị bài bản với tham vọng có thể giành được chiến thắng. Chúng phát triển quân chủ lực từ 7 sư đoàn khi mới giải phóng lên 12 sư đoàn quân chính quy với đầy đủ thành phần, binh chủng. Cuối tháng 4-1977, Pol Pot điều động 5 sư đoàn và hàng trăm khẩu pháo, xe tăng áp sát biên giới Việt Nam-thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn vào lãnh thổ vùng biên giới Tây Nam của Việt Nam.

     Cuộc phản công tự vệ của quân và dân ta

    Không thể phủ nhận rằng, trong thời kỳ đầu của các cuộc tập kích, khiêu khích ở biên giới Tây Nam, chúng ta đã mất cảnh giác vì tin vào chính quyền Campuchia do Pol Pot-Ieng Sari cầm đầu. Việt Nam không nghĩ rằng một quốc gia láng giềng từng được quân dân Việt Nam giúp đỡ, hy sinh cả xương máu để họ có được độc lập dân tộc lại quay súng, giết hại nhân dân, giết hại đồng bào mình. Thế nhưng, khi bọn chúng đã lộ mặt là kẻ phản bội-thật sự mở cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam thì quân dân Việt Nam bằng quyền tự vệ chính đáng của mình đã giáng trả đích đáng.

     Đặc biệt, ngay sau khi Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia chính thức được thành lập (ngày 3-12-1978), đáp ứng lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia, từ ngày 23-12-1978, Quân tình nguyện Việt Nam cùng LLVT của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia mở cuộc tổng phản công-tiến công, lần lượt phá vỡ toàn bộ hệ thống phòng thủ của quân Pol Pot. Ngày 7-1-1979, Quân tình nguyện Việt Nam và LLVT của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia đã giải phóng Phnom Penh, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của tập đoàn phản động Pol Pot và chế độ diệt chủng ở Campuchia.

     Ngày nay, nhìn lại cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc, chúng ta rút ra nhiều ý nghĩa cao cả:

     Trước hết, bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ luôn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của quân dân ta. Trong bất cứ tình huống nào, quan hệ quốc tế nào, chúng ta cũng không được thiếu cảnh giác trong sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, giải thích sự kiện quân dân ta không giáng trả ngay bè lũ Pol Pot, nhiều đồng bào, cựu chiến binh ta nói rằng: Khi đó chúng ta nghĩ rằng không có chuyện quân đội Campuchia lại tấn công Việt Nam.

     Mặc dù tình hình quốc tế và khu vực đã có những chuyển biến khác với thời kỳ "Chiến tranh lạnh" (1945-1991), tuy nhiên Việt Nam và Biển Đông là một trong những vị trí địa chính trị quan trọng trong khu vực. Cuộc cạnh tranh giữa các nước lớn ở khu vực này có thể dùng các phương thức khác nhau để giành giật quan hệ quốc tế… Điều này có thể dẫn đến những xung đột giữa các nước nhỏ trong khu vực. Đây là một thực tế đã diễn ra trong lịch sử mà Việt Nam không thể không quan tâm.

     Thứ hai, các sự kiện diễn ra trong cuộc chiến tranh này đã hoàn toàn bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch trong và ngoài nước về cuộc chiến tranh, nhất là luận điệu “Việt Nam xâm lược, xâm lấn Campuchia”. Thực tế cho thấy, cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam là một cuộc chiến tranh bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc ta. Đồng thời cũng là cuộc chiến đấu bảo vệ sinh mạng-quyền con người của cả hai dân tộc Campuchia và Việt Nam; là cuộc chiến tranh chính nghĩa-cuộc chiến tranh tự vệ chính đáng, giáng trả kẻ thù xâm lược, ngoài ra không có mục tiêu nào khác.

     Về nguyên nhân quân đội Việt Nam không rút về nước ngay trong năm 1979, Thủ tướng Hun Sen kể rằng: “Sau chiến thắng ngày 7-1-1979, nếu như theo kế hoạch ban đầu, bộ đội Việt Nam sẽ rút quân khỏi Campuchia ngay trong năm 1979. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, Campuchia chưa đủ sức chống lại Pol Pot và cần thời gian để củng cố lực lượng cũng như khôi phục nền kinh tế của mình. Nếu Việt Nam rút quân và Pol Pot quay trở lại được thì sẽ càng nhiều người Campuchia bị giết”, “Chính phủ Việt Nam không muốn để quân ở lại. Phía chúng tôi đã yêu cầu họ như thế...”(1).

     Thứ ba, về quan hệ Việt Nam - Campuchia, cuộc chiến tranh bảo vệ chủ quyền của quân dân ta đã đồng thời giáng đòn quyết định đánh sập chế độ diệt chủng ở Campuchia, ngoài ra không có mục tiêu nào khác. Chiến thắng của quân dân ta cũng có thể nói là chiến thắng của tình đoàn kết hữu nghị truyền thống Việt Nam-Campuchia, khôi phục lại tình đoàn kết hữu nghị vốn có giữa hai Đảng và nhân dân hai nước. Thủ tướng Hun Sen từng kể rằng: Trước tình hình đó (nạn diệt chủng), ông đã quyết định chạy sang Việt Nam đề nghị giúp đỡ tổ chức phong trào kháng chiến giải phóng đất nước. Khi ấy, ông được biết thông tin một số người dân Campuchia cũng đã rời quê hương sang Việt Nam lánh nạn. Ông tin Việt Nam, vì đây là nước láng giềng đã từng đồng cam cộng khổ, kề vai sát cánh với Campuchia trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung giành độc lập. Trong chuyến thăm Việt Nam gần đây, ông nói: “Nếu không có sự giúp đỡ của Việt Nam thì Campuchia không có ngày nay”.

     Thủ tướng Hun Sen còn khẳng định: “Chúng ta có thể hỏi rằng trên thế giới này, có đất nước nào đã giúp nhân dân Campuchia, đặc biệt là giải phóng khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot và ngăn cản sự quay lại của chúng? Câu trả lời chính là nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhân dân Campuchia có niềm tin, chỉ có tiên, có Phật mới cứu giúp được những phận người khi gặp khó khăn khốn cùng. Đúng vào lúc người dân Campuchia sắp chết, chỉ còn biết chắp tay khẩn cầu tiên, Phật tới cứu thì Bộ đội tình nguyện Việt Nam xuất hiện. Bộ đội Việt Nam chính là đội quân nhà Phật”(2).

     Chế độ diệt chủng Pol Pot không chỉ là một thảm họa với dân tộc Campuchia mà còn là một nguy cơ lớn đối với dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, giúp nhân dân Campuchia giải phóng "cũng là mình tự giúp mình”. Với mọi kẻ thù xâm lược, cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ là một thông điệp đanh thép của nhân dân Việt Nam. Bất cứ kẻ thù nào, nếu có dã tâm xâm lược Việt Nam, chúng sẽ bị giáng trả với toàn bộ sức mạnh tinh thần, trí tuệ và vật chất.
CAO ĐỨC THÁI

Thứ Sáu, 4 tháng 1, 2019

40 NĂM CHIẾN THẮNG CHIẾN TRANH BẢO VỆ BIÊN GIỚI TÂY NAM (07/01/1979 - 07/01/2019)


Sau 30/4/1975, nhân dân Việt Nam và Campuchia những tưởng được sống trong hòa bình, nhưng tập đoàn Pol Pot, Iêng Xa ry đã gây họa diệt chủng ở Campuchia và xâm lược biên giới Tây Nam Việt Nam.

40 NĂM CHIẾN THẮNG CHIẾN TRANH BẢO VỆ BIÊN GIỚI TÂY NAM (07/01/1979 - 07/01/2019)

Quân và dân ta đã thực hiện quyền tự vệ chính đáng, đập tan các hành động xâm lược; đồng thời đáp lời kêu gọi khẩn thiết của nhân dân Campuchia, quân tình nguyện Việt Nam đã cùng quân và dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng vào ngày 07/01/1979.
“10 ngày sau khi tiếp quản vào 30/4/1975, chúng tôi đã lại phải cầm súng đánh đuổi quân Pol Pot tràn lên định chiếm đảo Phú Quốc và Thổ Chu. Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội biên phòng - BĐBP) không được rời tay súng, kể cả khi đất nước đã thống nhất” - Thiếu tướng Trương Văn Thanh, nguyên Phó Tư lệnh BĐBP, nhớ lại.

Trận đầu Tuy Đức

Tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Campuchia có chiều dài 1.137 km, đi qua 10 tỉnh biên giới Tây Nam của Việt Nam. Thời kỳ sau giải phóng, một số đơn vị quân chủ lực và địa phương chuyển nhanh sang làm kinh tế. BĐBP vừa mới triển khai đã phải gánh vác nhiệm vụ quản lý biên giới - địa bàn, giữ trật tự an ninh và chiến đấu vũ trang bảo vệ từng tấc đất Tổ quốc.
Từ đầu tháng 5/1975, trên biên giới đoạn Hà Tiên - Tây Ninh, lính Pol Pot liên tiếp xâm phạm lãnh thổ ta gây ra những cuộc xung đột và tội ác. Cuối 1975 đầu 1976, lính Pol Pot tăng cường xâm lấn vùng tây sông Sa Thầy, nam đường 19 thuộc tỉnh Kon Tum. Đêm 03/01/1976, chúng tràn sang làng Xộp (xã Mo Ray, H.Sa Thầy, Kon Tum) đốt hết nhà cửa, cướp phá tài sản và bắt đi 130 dân làng. Đến tháng 6/1976, Pol Pot tăng cường lực lượng ra sát biên giới, xâm canh lấn đất ở các tỉnh Long An, Bình Phước, Tây Ninh… và thực hiện các hành động khiêu khích như bắn vào đội tuần tra, uy hiếp nhân dân đang đi lại làm ăn gần đường biên, tập kích, đốt phá, bắt cóc, gài mìn gây sát thương… Đặc biệt, đêm 25/02/1976, lính Pol Pot bất ngờ tập kích vào Đồn BP số 8 - Đắk Lắk (nay là Đồn BP cửa khẩu Bu Prăng nằm ở H.Tuy Đức, Đắk Nông), buộc bộ đội ta phải nổ súng đánh trả, đuổi sang bên kia biên giới. Trong tháng 3 và 4.1976, Pol Pot thường xuyên cho lực lượng bí mật sang trinh sát khu vực đóng quân của đồn 8, bắn súng khiêu khích. Ngày 25/6/1976, chúng tấn công chốt C3 làm 3 chiến sĩ bị thương…
“Khu vực quản lý của Đồn BP số 7 (nay là Đồn Tuy Đức, Đắk Nông) và Đồn 8 (nay là đồn Bu Prăng, Đắk Nông) được bọn Pol Pot chọn làm đột phá khẩu cho cuộc chiến tranh xâm lấn lãnh thổ Việt Nam. Đây là nơi có diễn biến tranh chấp và xung đột vũ trang sớm nhất toàn tuyến” - Thiếu tướng Trương Văn Thanh nói và kể: Ngày 05/01/1977, lính Pol Pot phục kích bắn M79 vào đội tuần tra của đồn làm 1 chiến sĩ hy sinh, 1 người khác bị thương nặng. Rạng sáng 14/01/1977, đồng loạt 2 tiểu đoàn bộ binh địch bao vây, tấn công 2 đồn nhưng vấp phải sự chống trả quyết liệt, phải rút về bên kia biên giới. Phía ta có 9 chiến sĩ hy sinh và 15 bị thương nặng, nhà cửa hư hại… Riêng đồn 7 (Tuy Đức) mất chốt phòng ngự và phải trưa hôm sau bộ đội mới phản kích lấy lại chốt…

Máu đổ dọc đường biên

Đêm 30/4/1977, các sư đoàn chủ lực Pol Pot đồng loạt tấn công các đồn, trạm BP và 13/13 xã biên giới của tỉnh An Giang. Tại chốt Mương Hội Đồng của Đồn BP Bắc Đai (Nhơn Hội, An Phú), 8 chiến sĩ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Ở trạm Tịnh Biên thuộc Đồn BP Tịnh Biên (Vĩnh Trung, Tịnh Biên) trên chốt lộ 2 đi Tà Keo, 10 cán bộ chiến sĩ quả cảm đánh lui nhiều đợt tấn công của địch và đều ngã xuống… Mãi tới ngày hôm sau, lực lượng địa phương và bộ đội chủ lực mới chi viện, đẩy địch ra khỏi biên giới.
Trong trận đầu tại An Giang, 26 BĐBP hy sinh, 75 người bị thương. Bọn Pol Pot cũng đã giết hại 228 người dân, làm bị thương 359 người, đốt cháy 444 nóc nhà. Ở xã Phú Hội (H.An Phú, An Giang) có 15 gia đình bị chúng giết cả nhà bằng những cách dã man, tàn ác nhất…
Ngày 18/9/1977, địch mở các đợt tấn công cấp sư đoàn vào hầu hết tuyến biên giới Đồng Tháp. Đêm 25.9.1977, chúng huy động 2 sư đoàn chủ lực, 2 sư đoàn dự bị, 8 tiểu đoàn địa phương với sự yểm trợ của pháo hạng nặng đồng loạt tấn công toàn diện tuyếnbiên giới Tây Ninh. Trong trận này, Đồn BP Xa Mát bị bao vây suốt 11 ngày. Bộ đội đã anh dũng chiến đấu, bảo vệ được hàng trăm hộ dân, diệt 114 địch. 10 cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh, bị thương…
Ngày 05/12/1977, lực lượng vũ trang ta đồng loạt phản công, đẩy địch về bên kia biên giới, nhưng Pol Pot lại tăng cường 12 sư đoàn mở các đợt tấn công lấn chiếm. Rạng sáng 17/3/1978, một trung đoàn lính Pol Pot luồn sâu, bất ngờ tấn công vào khu vực Bù Đốp (Bình Phước). Lính Pol Pot đánh vào thôn 6, xã Thiện Hưng, mũi khác vào ấp Xa Trạch, xã Hưng Phước (thời điểm trước khi Hưng Phước tách ra thành 2 xã Hưng Phước và Phước Thiện) và thảm sát dân thường hết sức dã man. Đi tới đâu, chúng đều chém giết, đốt phá, tàn sát không sót một ai, từ người già đến trẻ em. 247 người bị giết hại, 291 nóc nhà và khoảng 14 tấn lương thực bị thiêu rụi…

Người anh hùng Đồn Vĩnh Xương

Đại tá Phạm Văn Phong, Chính ủy BĐBP tỉnh An Giang, cứ mỗi khi nhớ lại cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam là nhắc đến đồng đội mình: Anh hùng liệt sĩ Hoàng Kim Long (SN 1959) ở xã Tây An, Tiền Hải, Thái Bình. Thông minh học giỏi nhưng 17 tuổi anh Long tình nguyện nhập ngũ và được bổ sung vào Đồn BP Vĩnh Xương (An Giang) đúng thời điểm cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam đang diễn ra ác liệt. Ngày 27/2/1978, lính Pol Pot ồ ạt đánh chiếm trạm kiểm soát của đồn nằm ở kinh Năm Xã, Hoàng Kim Long vác ĐKZ bắn liên tục 21 quả đạn, dập tắt 4 hỏa lực đại liên và 12 li 7, bắn chặn các cánh quân của địch, giữ vững vị trí tiền tiêu.
Ngày 14/4/1978, cả lữ đoàn Pol Pot đánh vào các vị trí của trạm và Đồn BP Vĩnh Xương ở khu vực chùa Thầy Bảy. Trong trận này, địch dùng cối 120, ĐKZ, pháo 105, 130 li đánh suốt 3 ngày đêm và vây 3 mặt khiến bộ đội bắn gần hết đạn. Đến ngày 18/4/1978, lính Pol Pot bố trí hỏa lực ở cánh đồng bắn vào chốt.
Phát hiện chỗ yếu của địch là để lộ mục tiêu trên đồng trống, Hoàng Kim Long đã dùng ĐKZ liên tục cơ động diệt 4 hỏa điểm của địch, trong đó có 2 đại liên, 2 khẩu 12 li 7. Khi bắn tới quả đạn thứ 17 tiêu diệt thêm 2 khẩu ĐKZ và đang lắp quả đạn thứ 18 thì anh Long trúng đạn, hy sinh ở tuổi 19. “Khi trận chiến đấu kết thúc, toàn đơn vị đã lao tới ôm lấy anh và khóc. Nếu không có Long, chúng tôi thương vong rất nhiều”, đại tá Phong nhớ lại và kể: “Tự nguyện làm xạ thủ ĐKZ 82, anh Long mày mò nghiên cứu, tìm cách bắn ĐKZ không chân (ứng dụng) ở mọi địa hình, mọi điều kiện.


Khẩu ĐKZ 82 do anh cải tiến bắn rất chính xác, đỡ tốn đạn mà hiệu suất diệt địch cao. Vừa có kỹ thuật giỏi, vừa có lòng dũng cảm cộng với lối đánh táo bạo, linh hoạt, anh đã làm kẻ thù nhiều phen khiếp sợ. Từ tháng 7/1977 - 4/1978, anh Long chiến đấu 35 trận, diệt 9 cụm hỏa lực và 50 tên địch”.

Thứ Năm, 27 tháng 12, 2018

CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TÂY NAM - NỖI OAN 30 NĂM

Tính từ khi quân Pol Pot gây hấn biên giới Việt Nam cho đến ngày sự thật được phơi bày khi những kẻ cầm đầu Khmer đỏ bị xét xử là hơn 30 năm (1975 - 2006).

CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TÂY NAM - NỖI OAN 30 NĂM
Quân đội Việt Nam rút khỏi Campuchia
 Sau sự kiện 30/4/1975, quân Pol Pot đã tiến hành xâm lấn biên giới Việt Nam mà đầu tiên là đảo Phú Quốc (04/5/1975) rồi tới đảo Thổ Chu, giết chết 500 thường dân. Chúng gây ra hàng loạt cuộc thảm sát nhân dân biên giới Việt - Cam.
Tháng 4/1977, quân Pol Pot tiến sâu 10 km vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm một số vùng ở tỉnh An Giang và tàn sát một số lớn dân thường.
Tới ngày 25/9, 4 sư đoàn quân Pol Pot đánh chiếm nhiều điểm ở các huyện Tân Biên, Bến Cầu, Châu Thành (tỉnh Tây Ninh), đốt phá 471 ngôi nhà, làm gần 800 người dân bị giết, bị thương hoặc mất tích.
Tính từ tháng 5/1975 đến ngày 23/12/1978, Pol Pot đã giết hại hơn 5.000 dân thường Việt Nam, làm bị thương gần 5.000 người, bắt và đưa đi thủ tiêu hơn 20.000 người. Chủ trương của quân Pol Pot là “chỉ cần mỗi ngày diệt vài chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn thì có thể đánh 10, 15, đến 20 năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Campuchia để tiêu diệt 50 triệu người Việt Nam”.
Ngày 31/12/1977 Việt Nam đưa vào Campuchia 6 sư đoàn bộ binh đánh sâu vào đất Campuchia giải thoát cho một số cán bộ quan trọng của Campuchia trong đó có Thủ tướng tương lai Hun Sen. Cuộc tấn công này được xem là lời “cảnh cáo” cho chính quyền Khmer Đỏ.
Việt Nam đề nghị đàm phán nhằm thiết lập một vùng phi quân sự dọc biên giới, nhưng Pol Pot nhiều lần từ chối, và giao tranh lại tiếp diễn. Từ tháng 12/1977 đến tháng 6/1978, hơn 30 vạn thường dân Việt Nam phải di tản vào sâu trong nội địa.
Ngày 13/12/1978, được sự trang bị và hậu thuẫn của Trung Quốc, chính quyền Khmer Đỏ đã huy động 19 trong 23 sư đoàn (khoảng 80.000 đến 100.000 quân) tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Trước tình hình đó Việt Nam bắt đầu đánh trả với lực lượng được chỉ huy bởi tướng Lê Trọng Tấn:
+ Bộ binh: Quân đoàn 2 (Sư 304, 325), Quân đoàn 3 (Sư 10, 31, 320, 302), Quân đoàn 4 (Sư 7, 9, 341, 2 - Lữ đoàn 22 thiết giáp, Lữ đoàn 24 pháo binh, Lữ đoàn 25 công binh), Quân khu 5 (Sư 307, 309 - Lữ đoàn đặc công 198), Quân khu 7 (Sư 5, 302, 303, Trung đoàn đặc công 117, Trung đoàn 262 pháo binh, Trung đoàn 26 thiết giáp, Trung đoàn công binh E25 QK7), Quân khu 9 (Sư đoàn 4, 330, 339);
+ Hải quân: Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126 và Lữ đoàn hải quân đánh bộ 101;
+ Không quân: Đoàn 901 không quân (Sư đoàn không quân 372, Trung đoàn 921) + Và hơn một vạn quân thuộc Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia (UFNSK) (là Chính phủ kháng chiến được thành lập bởi Hun Sen).
Từ tháng 6/1977 đến tháng 12/1978, quân tình nguyện Việt Nam đã tiêu diệt 38.563 quân Khmer đỏ, bắt sống 5.800 lính khác. Kết thúc cuộc chiến, quân tình nguyện Việt Nam tiêu diệt hơn 10 vạn quân Pol Pot.
 Đến ngày 07/01/1979, Phnom Penh được giải phóng nhưng 10 năm sau, cuộc chiến tranh mới kết thúc, hơn 3 triệu dân Campuchia chết dưới nạn diệt chủng của Pol Pot. Cuộc chiến kết thúc với thiệt hại của Việt Nam là khoảng 50 - 55 ngàn quân nhân hi sinh hoặc mất tích và 200 ngàn người bị thương, hơn 55 ngàn dân thường chết hoặc bị thương (riêng tỉnh Bình Định đã có gần 10 ngàn liệt sĩ).

Cái nhìn của quốc tế và khó khăn của Việt Nam

Các đợt tấn công của quân Pol Pot mang tính chất xâm lược lãnh thổ Việt Nam.
- Cuộc chiến biên giới Tây Nam là cuộc chiến tranh tự vệ chính đáng theo điều 51 Hiến chương Liên Hợp Quốc. Đây là cuộc chiến nhân đạo giúp Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng và giúp họ xây dựng chính quyền Campuchia mới.
Quan điểm của quốc tế: Ngoài Liên Xô ra thì cả khối XHCN và khối TBCN đều ủng hộ chính quyền Khmer đỏ và cho rằng Việt Nam đang tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Campuchia.
Phương Tây và Trung Quốc đều viện trợ nhân đạo cho chính quyền Khmer đỏ mà trong đó chính Trung Quốc là nước viện trợ tích cực nhất cho chính quyền Khmer đỏ (nếu không muốn nói chính Trung Quốc đã hậu thuẫn cho chính quyền Khmer đỏ tấn công Việt Nam).
Phương Tây mà đứng đầu là Mỹ đã tuyên truyền: Việt Nam đang “thuộc địa hóa” Campuchia theo thuyết “chủ nghĩa bành trướng của cộng sản” mà họ nêu lên vài thập kỉ trước. Họ gọi Việt Nam là Đế chế Cộng sản ở Đông Dương, rằng Hà Nội muốn thành lập một Liên bang Đông Dương và lãnh đạo 3 nước Đông Dương.
Trong khi đó, chính phủ Lào vẫn giữ tính trung lập (sau này trong cuốn Red Brotherhood at war - Chân lý thuộc về ai, tác giả có nói đó là “sự lu mờ của chủ nghĩa cộng sản trung lập” để chỉ Chính phủ Lào).
Chính phủ Thái Lan thì không công nhận cuộc chiến của Việt Nam, đến năm 1982 thì bắt đầu xung đột với quân tình nguyện Việt Nam ở biên giới Thái-Cam, để Khmer đỏ đóng quân ở đấy và nhận viện trợ từ Phương Tây và Trung Quốc, đến năm 1988 thì chấm dứt.
Hồi ký của Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam - Trần Quang Cơ có đoạn: ngoài Trung Quốc và Singapore, tất cả các thành viên trong cuộc họp ngày 16/8/1989 đều thừa nhận hành vi diệt chủng của Khmer Đỏ.
Và theo cựu ngoại trưởng Singapore Bilahari Kausikan thì lúc đó Mỹ cảnh báo Singapore rằng sẽ có “máu đổ trên sàn nhà” nếu Singapore không chịu ủng hộ Khmer Đỏ, nói cách khác Singapore bị Mỹ ép phải ủng hộ Khmer Đỏ để bảo vệ lợi ích tối cao của Mỹ.

Khó khăn của Việt Nam.

Về kinh tế: Cùng với việc hậu thuẫn cho chính quyền Khmer đỏ xâm lược Việt Nam, từ năm 1976 Trung Quốc đã ngừng gói viện trợ không hoàn lại 500.000 tấn gạo hàng năm và cắt việc cung cấp hàng tiêu dùng. Khó khăn càng nhiều khi các nước khác viện trợ nhỏ giọt và tiếp đó là lũ lụt năm 1978 - trận lụt lớn nhất trong 60 năm làm cho kinh tế Việt Nam kiệt quệ.
Phương Tây sau đó chỉ còn Pháp viện trợ số lượng ít, các nước tư bản khác vẫn chờ phản ứng của Mỹ (mà Mỹ lại siết chặt cấm vận).
Khó khăn đã khiến khẩu phần ăn trong nước bị giảm xuống 1kg gạo/tháng, kể cả quân tình nguyện trên đất Campuchia cũng bị cắt giảm như vậy. Mặc dù vậy, năm 1979 Việt Nam vẫn viện trợ cho Cộng hòa Nhân dân Campuchia 120.000 tấn lương thực.
Về chính trị - quân sự: Trung Quốc bắt đầu gây hấn ở Biển Đông và các tỉnh phía Bắc Việt Nam mà đỉnh điểm là cuộc xâm lược toàn tuyến biên giới 6 tỉnh phía Bắc Việt Nam năm 1979 và sau đó là “Sự kiện Gạc Ma” năm 1988.
Tháng 4/1981 Việt Nam đã thể hiện việc sẵn sàng rút tất cả quân tình nguyện khỏi Campuchia nếu Trung Quốc ký một hiệp ước không xâm lược Việt Nam, Lào và Cộng hoà nhân dân Campuchia. Nhưng Trung Quốc kiên quyết không chấp nhận đề nghị trên.
Chiến tranh kết thúc: Tính đến năm 1986 thì lực lượng Khmer đỏ hầu như tan rã nhưng Việt Nam vẫn duy trì hàng rào quân sự tại biên giới Lào-Campuchia với 150 ngàn quân. Tới tháng 9/1989 thì rút hoàn toàn về nước. Năm 1992 - 1993 thì lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc tại Campuchia tạm thời quản lý đất nước này.
Tháng 12/1999, Ta Mok và các thủ lĩnh còn lại đầu hàng, Khmer Đỏ trên thực tế chấm dứt sự tồn tại.
Năm 2006 phiên tòa xét xử tội ác Khmer đỏ được thành lập, ngày 26/7/2011 phiên tòa xét xử phiên đầu tiên. Cuộc chiến 10 năm của Việt Nam có kết quả.

Và trên hết, thế giới đã nợ Việt Nam một lời xin lỗi.

Thứ Tư, 29 tháng 11, 2017

RFA: HÃY XEM CÁCH ỨNG XỬ CỦA TÒA ÁN CAMPUCHIA LÀM BÀI HỌC

Lâu này chuyện RFA lợi dụng việc đưa tin để chống phá, gây phương hại đến lợi ích của một số quốc gia mà họ xem là mục tiêu không còn là chuyện gì đó quá lạ! Tuy nhiên, điều đáng tiếc là không phải ở đâu, khi nào những hành vi vi phạm pháp luật đó cũng bị nhận diện và xử lý nghiêm minh như tại Campchia. 



Theo hãng tin Deutsche Welle (Đức): Ngày 14/11 vừa qua nhà chức trách Campuchia đã bắt quả tang hai trường hợp là Uon Chhin và Yeang Sothearin khi hai người này đang gửi bài viết chứa “thông tin gây hại về quốc phòng” cho Đài Châu Á tự do – RFA. Sau đó, ngày 18/11 Toà án Campuchia cáo buộc hai người trên phạm tội gián điệp và cáo buộc này có thể dẫn tới án tù 15 năm cho mỗi người. Được biết, Uon Chhin và Yeang Sothearin từng làm việc cho RFA trước khi Văn phòng RFA chi nhánh Phnom Penh bị đóng cửa vào tháng 9 vừa qua". 

Qua một số tài liệu thì RFA được lập trong thời chiến tranh lạnh (1950) và hoạt động dưới sự quản lý trực tiếp của Cục tình báo trung ương Mỹ - CIA và lấy nguồn ngân sách từ Quốc hội Mỹ. Mục tiêu là tuyên truyền đường lối của Mỹ bằng tiếng địa phương đến các quốc gia Mỹ xem là kẻ thù (đặc biệt là Liên Xô trước đây). Việt Nam cùng một số nước Đông Nam Á như Campuchia, Lào cũng là những mục tiêu được RFA hướng đến trong chiến dịch sử dụng tuyên truyền để chống phá của mình. Tại Việt Nam, dù không có văn phòng đại diện trong nước nhưng RFA thông qua nhiều cách thức khác nhau mà phổ biến là thường xuyên đăng tải nhiều bài viết vu khống, bôi nhọ hình ảnh đất nước Việt Nam, Nhà nước Việt Nam nhằm hạ thấp vai trò, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế trên mạng Internet; móc nối liên hệ phỏng vấn các cá nhân trong nước mà đa phần là các đối tượng phản động có số má... Điển hình, mới đây dù biết chuyện ông Nguyễn Khắc Thủy trước khi xử lý hình sự với tội danh dâm ô với bản án 03 năm tù giam thì ông ta đã ít nhất bị khai trừ đảng nhưng thông qua việc phỏng vấn JB Nguyễn Hữu Vinh (GX Thái Hà, Hà Nội). Nhà đài này đã cố tình lèo lái câu chuyện sang hướng khác; đồng nghĩa việc đốt thẻ đảng của ông Thủy với việc ngày càng có nhiều đảng viên bất mãn với đảng cộng sản và chế độ hiện thời tại Việt Nam: 
"Hẳn là người dân sẽ không nghi ngờ rằng vụ án sẽ được điều tra nhanh hơn, tội ác sẽ được xét xử sớm hơn, minh bạch rõ ràng và thích đáng hơn cho tội phạm này nếu (vẫn là chữ nếu) Nguyễn Khắc Thủy không phải là đảng viên, nguyên Giám đốc Ngân hàng nhà nước chi nhánh BR-VT. Nếu Nguyễn Khắc Thủy không mang theo chữ "nguyên" mà là đảng viên đương chức, hẳn lão sẽ không phải hầu tòa hôm nay. Bởi tiền và quyền sẽ cứu lão khỏi cái án này. Hoặc cũng có thể nếu không có chữ "nguyên" thì chắc lão có đầy các nhân viên chân dài, đầy các cháu măng tơ để lão giải sầu mà không cần phải có hành động dâm ô với trẻ nhỏ. Nhưng, cho đến khi mang chữ "nguyên" khó chịu kia, lão vẫn không sợ luật pháp, có lẽ cái thẻ đảng với 51 tuổi đảng kia đã làm lão quá tự tin?". "Những vụ việc xâm hại các bé gái, tội ấu dâm, hiếp dâm... trong xã hội Việt Nam không phải là hiện tượng hiếm. Sở dĩ nó tồn tại và ngày càng phát triển chỉ vì luật pháp đã không nghiêm trong một hệ thống chính trị mục rã, đạo đức xã hội suy đồi. Và qua đó như sự dung túng cho việc xâm hại ngày càng rộng rãi mà không bị trừng trị".

So với Campuchia thì việc thực hiện việc xử lý FRA tại Việt Nam sẽ không dễ dàng gì! Tuy nhiên, khó không có nghĩa là không thực hiện. Mọi chế độ luôn biết tự bảo vệ mình trước những nguy cơ đe dọa. Với những gì đang tiếp diễn và thực hiện thì không loại trừ sẽ có lúc RFA sẽ phải trả giá cho những gì mình gây ra! Hi vọng việc bị chính quyền Campuchia xử lý đối với 02 Phóng viên của mình sẽ khiến RFA rút ra bài học kinh nghiệm xương máu! 

Thứ Hai, 13 tháng 11, 2017

Toàn cảnh cuộc chiến chống chế độ diệt chủng Pol Pot

Từ năm 1975 đến 1979, đất nước Campuchia ngập chìm trong nỗi đau tột cùng bởi họa diệt chủng mà chính quyền Khmer Đỏ gây nên. Bè lũ phản động Pol Pot đã xua quân lấn chiếm biên giới và tàn sát nhân dân Việt Nam ở phía Tây Nam. Quân đội nhân dân Việt Nam đã cùng lực lượng yêu nước Campuchia chiến đấu, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng và xây dựng nước Cộng hòa nhân dân Campuchia ngày càng phát triển.


Bối cảnh chiến sự trước năm 1979
Sau Chiến tranh Việt Nam (1975), Việt Nam và Campuchia xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Tranh chấp và xung đột biên giới xảy ra liên tục trong các năm 1977 và 1978. Ngày 4/5/1975, một toán quân Khmer Đỏ đột kích đảo Phú Quốc, ngày 10/5, quân Khmer Đỏ đánh chiếm và hành quyết hơn 500 dân thường ở đảo Thổ Chu. Quân đội nhân dân Việt Nam đã phản công, giành lại các đảo này. Khi đó, Trung Quốc đang có lực lượng cố vấn ở Campuchia và Trung Quốc tăng cường viện trợ quân sự cho lực lượng vũ trang Khmer Đỏ.
Tiếp đó, Khmer Đỏ tiến hành hai cuộc xâm nhập qui mô lớn vào Việt Nam. Cuộc tấn công lớn đầu tiên diễn ra vào tháng 4 năm 1977, quân chính qui Khmer Đỏ tiến sâu 10 km vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm một số vùng ở tỉnh An Giang và tàn sát rất nhiều dân thường. Cuộc tấn công thứ hai diễn ra vào ngày 25/9 cùng năm, lần này 4 sư đoàn quân Khmer Đỏ đánh chiếm nhiều điểm ở các huyện Tân Biên, Bến Cầu, Châu Thành (tỉnh Tây Ninh), đốt phá 471 ngôi nhà, làm gần 800 người dân bị giết, bị thương hoặc mất tích.
Ngày 31/12/1977, Quân đội Nhân dân Việt Nam huy động 6 sư đoàn đánh vào sâu trong đất Campuchia đến tận bến phà Neak Luong rồi rút lui từ ngày 5/1/1978, mang theo một số nhân vật quan trọng bên phía Campuchia, trong đó có cả Thủ tướng tương lai Hun Sen. Cuộc tấn công này được xem là lời “cảnh cáo” cho Khmer Đỏ. Phía Việt Nam đề nghị một giải pháp ngoại giao nhằm thiết lập một vùng phi quân sự dọc biên giới, nhưng Pol Pot từ chối và chiến tranh ở biên giới Tây Nam tiếp diễn.
Pol Pot đã điều 13 trong số 17 sư đoàn chủ lực và một số trung đoàn địa phương liên tục tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, có nơi vào sâu tới 15–20 km. Trong các đợt tấn công đó, Khmer Đỏ đã thực hiện thảm sát đối với người Việt Nam, điển hình là vụ thảm sát Ba Chúc vào tháng 4 năm 1978 với 3157 dân thường bị giết hại. Từ năm 1975 cho tới năm 1978, có tới 30 ngàn người Việt Nam bị Khmer Đỏ sát hại trong các cuộc tấn công dọc biên giới.
Việt Nam cố gắng giải quyết cuộc xung đột một cách hòa bình thông qua đàm phán ngoại giao nhưng phía Khmer Đỏ từ chối đàm phán, Trung Quốc không chịu làm trung gian hòa giải, còn Liên hợp quốc không có biện pháp gì phản hồi lại các phản đối của Việt Nam về các hành động gây hấn của Khmer Đỏ. Việt Nam phải chuyển sang sử dụng vũ lực để giải quyết cuộc xung đột.
Ngày 13/12/1978, được sự trang bị và hậu thuẫn của Trung Quốc, Khmer Đỏ đã huy động 10 trong 19 sư đoàn (khoảng 50.000 đến 60.000 quân) tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Ba sư đoàn đánh vào Bến Sỏi với mục tiêu chiếm thị xã Tây Ninh, 2 sư đoàn đánh vào Hồng Ngự (Đồng Tháp), 2 sư đoàn đánh khu vực Bảy Núi (An Giang), 1 sư đoàn đánh Trà Phô, Trà Tiến (Kiên Giang). Tại những vùng chiếm đóng, Khmer Đỏ đã thực hiện sách lược diệt chủng đối với người Việt, như đã làm với người Khmer.
Quân đội Việt Nam đã chống trả quyết liệt và ngăn chặn địch, đồng thời tiêu hao sinh lực của quân Khmer đỏ. Các hướng tiến quân của Khmer Đỏ không thể phát triển được. Ngoại trừ Hà Tiên bị chiếm giữ trong thời gian ngắn, không một thị xã nào của Việt Nam bị chiếm.
Quân đội Việt Nam đã tiêu diệt 38.563 quân Khmer đỏ, bắt sống 5.800 tên, đồng thời dùng không quân phối hợp với bộ binh tiến hành các cuộc không kích và giao tranh trên bộ, đánh vào các đơn vị quân Khmer Đỏ dọc biên giới, nhằm làm suy yếu quân Khmer Đỏ trước khi quân Việt Nam bắt đầu chiến dịch đã tiêu diệt khoảng 17 ngàn quân Khmer Đỏ.
Chiến dịch biên giới Tây Nam và Campuchia
Chỉ huy trực tiếp chiến dịch là Thượng tướng Lê Trọng Tấn, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Đầu tháng 12/1978, quân đội Việt Nam được hỗ trợ bởi một số tiểu đoàn Khmer thân Việt Nam. Đây là những đơn vị quân đội Campuchia yêu nước, chống lại chính quyền Khmer đỏ, đã kiểm soát một vùng đệm dọc biên giới trong lãnh thổ Campuchia, từ Mimot đến Snuol ở các tỉnh Kampong Cham và Kratié. Ở phía Bắc, quân Việt Nam cũng kiểm soát một vùng rộng thuộc lãnh thổ Campuchia dọc theo đường 19.
Ngày 23/12/1978, sau khi được tăng viện, với 80.000 quân, quân đội Việt Nam đã tiến hành phản công trên toàn bộ mặt trận, đẩy lùi quân Khmer Đỏ. Sư đoàn 2 cùng trung đoàn chủ lực tỉnh Tây Ninh mở cuộc tấn công nhằm đánh bật các Trung đoàn 23 thuộc Sư đoàn 304 và Trung đoàn 13 thuộc Sư đoàn 221 của Campuchia ra khỏi các vị trí dọc theo tỉnh lộ 13 sát biên giới.
Tuy nhiên, cuộc chiến chưa chấm dứt, quân đội Việt Nam quyết định mở cuộc tấn công sâu vào đất Campuchia…
Đánh chiếm bờ đông sông Mekông
Sau khi đánh tan sức kháng cự của quân Khmer Đỏ, các lực lượng Việt Nam thuộc Quân khu 5 nhanh chóng hành tiến theo đường 19, sư đoàn 309 quét sạch tỉnh Ratanakiri, phía Bắc tỉnh Mondolkiri và tiến vào phía Bắc tỉnh Stung Treng. Sư đoàn 307 tiến theo đường 19, dùng cầu phao vượt sông Serepok và sông Mekong. Tới ngày 1/1/1979, lực lượng Quân khu 5 tiến dọc sông Mekong chiếm được Stung Treng.
Cùng thời gian này, Sư đoàn 5 thuộc Quân khu 7 tiến từ hướng đông, cùng Sư đoàn 303 tiến theo hướng tây bắc từ Snuol cùng đánh vào Kratié do Sư đoàn 260 và 2 trung đoàn địa phương của đặc khu 505 phòng thủ. Ngày 29 tháng 12, thành phố Kratié được giải phóng. Cùng lúc, Sư đoàn 302 tiến về phía Tây đã chiếm được Kampong Cham. Sau đó, hai Sư đoàn 302 và 303 cùng quay lại đánh chiếm thị xã Chhlong. Kể từ đó, lãnh thổ Campuchia ở phía đông sông Mekong đã nằm trong tầm kiểm soát của QĐND Việt Nam.
Sáng ngày 31/12, được pháo binh bắn yểm trợ, xe tăng và bộ binh Quân đoàn 3 Việt Nam tiến công và nhanh chóng đánh tan 5 sư đoàn quân Khmer Đỏ trên toàn tuyến phòng thủ dọc theo biên giới ở tỉnh Kampong Cham. Tới cuối ngày, trừ sở chỉ huy quân Khmer Đỏ, toàn bộ các cứ điểm còn lại thất thủ, quân Khmer Đỏ rút chạy về thị trấn Kampong Cham ở bờ tây sông Mekong, bị quân Việt Nam truy kích ráo riết.
Không quân Việt Nam cũng tham chiến, tấn công vào tuyến phòng thủ của Khmer Đỏ và ném bom phá hủy một sân bay mà từ đó máy bay T-28 Khmer Đỏ vẫn xuất kích ném bom vào quân tiền phương Việt Nam. Sáng ngày 1 tháng 1 năm 1979, sau khi tập hợp lại lực lượng, Quân đoàn 3 đánh chiếm sở chỉ huy Khmer Đỏ sau một giờ. Tướng Kim Tuấn hạ lệnh cho các đơn vị dưới quyền truy quét và tiêu diệt các lực lượng Khmer Đỏ còn sót lại.
Tới ngày 3 tháng 1, Sư đoàn 320 (Sư đoàn Đông Bằng) đã tiến tới bờ đông của bến phà Kampong Cham trên sông Mekong. Tại đây, sư đoàn dừng lại, rồi dùng 2 đại đội xe bọc thép mở đường, đánh về phía nam, chiếm thủ phủ tỉnh Prey Veng.
Trong thời gian đó, ngày 28/12, ở hạ lưu đồng bằng sông Mekong, lực lượng Khmer Đỏ thuộc Quân khu Đông Nam mở cuộc tấn công dọc biên giới. Sáng ngày 31 tháng 12, sư đoàn 4 của Quân khu 9 và Trung đoàn 9 của Sư đoàn 304 (Sư đoàn Vinh Quang) phối thuộc mở cuộc phản công. Sau 24 giờ giao tranh kịch liệt, quân Việt Nam đã đánh lui quân Khmer Đỏ khỏi bờ tây kênh Vĩnh Tế.
Chiều ngày 1/1, được pháo binh và không quân yểm trợ, Lữ đoàn công binh 219 thuộc Quân đoàn 2 bắc cầu phao vượt sông. Sư đoàn 304 và Lữ đoàn xe bọc thép 203 mở đường tiến vào đất Campuchia. Tới trưa ngày 3 tháng 1, Quân đoàn 2 và Quân khu 9 đã tiêu diệt hoặc đánh tan tất cả các lực lượng Khmer Đỏ ở hạ lưu sông Mekong dọc biên giới. Sở chỉ huy Quân khu Tây Nam của Khmer Đỏ phải rút về Takeo.
Sau ba ngày tấn công, tại hướng chủ yếu Tây Ninh, Quân đoàn 4 với sự yểm trợ của không quân, trực thăng, pháo binh, hải quân, thiết giáp… quân đội Việt Nam đánh bật được quân Khmer Đỏ khỏi các vị trí Năm Căn, Hòa Hội dọc theo tỉnh lộ 13, và các đơn vị của các Sư đoàn 703, 340, 221 của Khmer Đỏ phải rút về thành lập một tuyến phòng thủ mới tại Svay Rieng, tập trung ở cầu Don So.
Được 15 xe tăng và xe bọc thép mở đường, cùng với pháo 105mm, 155mm bắn yểm trợ, Sư đoàn 7 của Quân đoàn 4 mở cuộc tấn công vào quân Khmer Đỏ ở Don So. Tới đêm ngày 1/1, Thượng tướng Hoàng Cầm hạ lệnh cho Sư đoàn 7 tung hết lực lượng dự bị vào trận. Quân Khmer Đỏ kháng cự dữ dội, nhưng sau khi bị đánh thua ở Tây Ninh, quân Khmer Đỏ đã bị mất tinh thần; hơn nữa, do phải chấp nhận một trận đánh quy ước với một địch thủ có hoả lực, quân số và kinh nghiệm chiến trường trội hơn quá nhiều nên quân Khmer Đỏ bị tan rã.
Tuyến phòng thủ Svay Rieng bị vỡ ngày 2/1/1979, quân Khmer Đỏ phải rút về Prey Veng và Neak Luong, chỉ để lại một số đơn vị đánh cầm chân Quân đoàn 4.
Tới ngày 2/1/1979, quân đội Việt Nam đánh tan các sư đoàn chủ lực của Khmer Đỏ án ngữ các trục đường số 1, 7 và 2 ở lối vào Phnom Penh. Chiều ngày 3 tháng 1, Sư đoàn 7 chiếm được cầu Don So và tới ngày 4 tháng 1 đã làm chủ toàn bộ vùng phía đông sông Mekong. Tới ngày 5 tháng 1, Sư đoàn 7 tiến đến Neak Luong.
Giải phóng Phnom Penh
Ngày 6/1, các đơn vị Việt Nam vượt sông Mekong qua ngả Neak Luong và bắc Kompong Cham. 9 sư đoàn quân Việt Nam làm thành hai gọng kìm tiến vào Phnom Penh từ phía Đông Nam và phía Bắc: Sư đoàn 7 và Sư đoàn 2 di chuyển theo quốc lộ 1, Sư đoàn 9 tiến song song bảo vệ sườn phía nam và Sư đoàn 341 bảo vệ sườn phía bắc.
Tại Kompong Cham, Quân đoàn 3 của Thiếu tướng Kim Tuấn cũng chiến đấu quyết liệt với quân Khmer Đỏ để vượt sông. Quân Khmer Đỏ thiết lập trận địa phòng ngự dọc bờ tây sông Mekong. Thiếu tướng Kim Tuấn quyết định dùng hỏa lực áp đảo bắn vào trận địa phòng thủ của quân Khmer Đỏ, rồi cho thả khói mù, dùng thuyền chuyển quân sang bờ tây. Đến 8h30 sáng, Kampong Cham thất thủ.
Ngay trong sáng ngày 6 tháng 1, lực lượng đột kích Phnom Penh, gồm Trung đoàn 28 của Sư đoàn 10 và các đơn vị phối thuộc, dẫn đầu bởi 6 xe lội nước và một số xe thiết giáp M-113 vượt sông, tổng cộng lực lượng lên đến 120 xe quân sự. Lực lượng đột kích vừa hành quân vừa chiến đấu với các ổ phục kích của quân Khmer Đỏ, tới chiều tối đã tới bờ sông Tonglé Sap và tổ chức đánh vượt sông để tiến vào Phnom Penh.
Trong khi đó, ngày 6/1/1979, những đơn vị đầu tiên của Sư đoàn 7 Quân đoàn 4 chiếm được bờ phía đông của bến phà Neak Luong. Quân Campuchia trong khi rút lui vội vã đã không kịp thiết lập công sự phòng thủ. Trong đêm, cách bến phà khoảng hai cây số về phía nam, Trung đoàn 113 cùng Trung đoàn 14 của Sư đoàn 7 được tàu đổ bộ đưa sang bên kia sông, tiến chiếm bờ phía tây của bến phà.
Ngày 7/1, toàn bộ đội hình Quân đoàn 4 tiến hành vượt sông. Do sự tan rã nhanh chóng của lực lượng phòng thủ biên giới và sự chủ quan của Pol Pot, quân đội Việt Nam tiến vào Phnom Penh từ Neak Luong mà không gặp sức chống cự đáng kể nào. Trưa ngày 4/1, Quân đoàn 4 đã có thể bắt tay với Quân đoàn 3 ở ngoại ô phía bắc Phnom Pênh.
Việc quân Việt Nam tiến quá nhanh khiến cho Khmer Đỏ chỉ kịp sơ tán bộ máy lãnh đạo. Son Sen chạy xuyên qua mặt trận, ngược về phía Việt Nam để tập hợp tàn quân của các sư đoàn thuộc quân khu miền Đông. Pol Pot, Nuon Chea và Khieu Samphan được vài chiếc xe Jeep chở quân bảo vệ chạy về Pursat. Ieng Sary chạy về Battambang trên một chuyến xe lửa đặc biệt chở vài trăm nhân viên Bộ ngoại giao.
Việc rút lui khẩn khiến nhiều Bộ khác cùng hàng ngàn nhân viên không được thông báo về cuộc rút lui. Các chuyến xe tiếp theo sơ tán Phnom Penh bị tắc nghẽn bởi quá nhiều người tìm cách bỏ chạy. Như vậy, với việc ban lãnh đạo sơ tán, khoảng 40 ngàn dân chúng và binh lính Khmer Đỏ tại Phnom Penh, cũng như các đơn vị quân phòng thủ các mục tiêu lân cận bị bỏ mặc, tự thân vận động.
Đánh đuổi Polpot trên toàn Campuchia
Ngày 7/1, quân Việt Nam chiếm sân bay Kampong Chonang và bắt được 10 máy bay A-37, 3 C-123K, 6 C-47, 3 Alouette III cùng một số T-28. Ngoài ra Khmer Đỏ cũng bỏ lại hàng trăm xe tăng và xe bọc thép, rất nhiều đạn dược và lương thực dự trữ chiến lược.
Ngày 8/1, Hội đồng Nhân dân Cách mạng Campuchia do Heng Samrin làm Chủ tịch đã được thành lập với sự hậu thuẫn của Việt Nam.
Ở phía Bắc, các sư đoàn của Quân đoàn 3 cũng tiến xuống Phnom Penh, sau đó Sư đoàn 320 theo quốc lộ 4 xuống các tỉnh phía nam. Các sư đoàn còn lại theo các quốc lộ 5 và 6 tiến về hướng Tây và hướng Bắc.
Tại mặt trận phía nam, từ An Giang, quân Việt Nam bắt đầu vượt biên giới vào ngày 3/1/1979 và tấn công theo hai hướng. Hướng thứ nhất, Sư đoàn 325 (Sư đoàn Bình Trị Thiên) và Sư đoàn 8 tiến về phía Tây, dọc theo quốc lộ số 2. Ngày 5/1/1979, trong khi lực lượng Quân khu 9 tiến đánh Takeo, sư đoàn 325 bắt đầu hành tiến theo hướng Tây Bắc. Cùng lúc đó tướng Nguyễn Hữu An cũng tung Sư đoàn 8 theo hướng tây để đánh chiếm quận lỵ Kampong Trach, nằm ở giao điểm với đường quốc lộ ven biển.
Nắm quyền chỉ huy trực tiếp trung đoàn xung kích 24, Trung tướng Nguyễn Hữu An dẫn trung đoàn tiến từ Tuk Meas về Chhuk. Các xe tăng hạng nặng, xe tải và trọng pháo di chuyển khó khăn trên đường đất và ruộng lúa. Tới chiều ngày 7 tháng 1, lực lượng xung kích đã ra đến đường số 3 và trong quá trình tiến công, đã đánh tan sư đoàn quân Khmer Đỏ phòng ngự Chhuk.
Trong hai ngày 4, 5 tháng 1/1979, từ đảo Phú Quốc, hai phân đội Hải quân Việt Nam gồm một số tàu tuần tiễu loại lớn, hai tàu khu trục Petya cùng nhiều tàu chiến nhỏ chuẩn bị chuyển Lữ đoàn Hải quân 101 và 126 đổ bộ. Hải quân cũng lập trận địa pháo 130mm ở mũi đảo Phú Quốc để yểm trợ cho lực lượng đổ bộ.
Xẩm tối ngày 6/1, toán quân đặc công gồm 87 người bí mật đổ bộ và tấn công chiếm một trận địa pháo Khmer Đỏ bảo vệ bờ biển; cùng lúc, pháo 130mm bắt đầu bắn phá các vị trí quân Khmer Đỏ. Số tàu phóng lôi Khmer Đỏ chạy thoát khỏi cuộc hải chiến và các cuộc không kích của không quân Việt Nam, đến ngày 16/1 lại bị Hải quân Việt Nam chặn đánh trong vịnh Thái Lan và bị tiêu diệt gần hết.
Tối ngày 7/1, Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126 tiến hành đổ bộ ở chân núi Bokor, nằm ở khoảng giữa thị xã Kampot và cảng Sihanoukville.
Hướng thứ hai, Quân khu 9 phụ trách, tiến về phía Bắc đánh chiếm hai thị xã Tan và Takéo. Các sư đoàn Khmer Đỏ trấn giữ quân khu Tây Nam như Sư đoàn 2, 210, 230, 250, bị tan rã và rút lui vào rừng.
Cuối tháng 1/1979 cuộc phản công kết thúc thắng lợi. Đến ngày 17/1 thị xã cuối cùng là Ko Kong rơi vào tay quân đội Việt Nam và chính quyền mới của Campuchia. Cho tới cuối tháng 3, quân đội Việt Nam coi như chiếm được hết những thành phố và tỉnh lỵ quan trọng của Campuchia và tiến sát tới biên giới Thái Lan. Tuy nhiên tàn quân Pol Pot vẫn tiếp tục chống cự và quấy nhiễu. Quân tình nguyện Việt Nam đã có 10 năm truy quét tàn quân Pol Pot và giúp nhân dân Campuchia xây dựng chính quyền cách mạng, ổn định cuộc sống.
Thành lập chính quyền mới
Ngày 5/1/1979, có 66 đại biểu Campuchia được triệu tập họp ở Mimot để bàn về việc thành lập một đảng cộng sản Campuchia mới. Đảng này lấy lại tên Đảng Nhân dân Cách mạng có từ thời 1951. Những Ủy viên thường vụ của đảng gồm Hun Sen, Bou Thoong, Chan Kiri, Heng Samrin và Chia Soth.
Ngày 8/1/1979, đài phát thanh Phnom Penh loan báo Phnom Penh đã được giải phóng bởi những lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia. Một Hội đồng cách mạng được thành lập do Heng Samrin làm chủ tịch. Khoảng mười ngày sau, hội đồng này ký một hiệp ước với Việt Nam, hợp thức hóa sự hiện diện của quân đội Việt Nam trên đất Campuchia.
Tới mùa xuân 1981, hiến pháp mới của Campuchia được thông qua, sau đó là cuộc bầu cử toàn quốc để chọn ra 117 đại biểu quốc hội. Hun Sen được bầu làm Bộ trưởng Ngoại giao, Heng Samrin làm Chủ tịch nước. Ba sư đoàn mới được thành lập và đặt dưới Bộ Quốc phòng, nhưng an ninh vẫn được duy trì chủ yếu dựa vào sự hiện diện của 180.000 quân Việt Nam mà lực lượng chủ chốt là Quân đoàn 4 do đại tướng Lê Đức Anh chỉ huy.
Chính quyền mới của Campuchia chỉ được một số nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa công nhận.
Từ năm 1979 đến giữa năm 1985, quân đội Việt Nam thực hiện các chiến dịch quân sự truy quét đánh phá các căn cứ của Khmer Đỏ. Tháng 1/1980, chiến dịch quân sự nhằm vào Khmer Đỏ tại Phnom Chhat bắt đầu. Thời gian này, Khmer Đỏ bắt đầu tái xâm nhập Campuchia từ Thái Lan với khoảng 3-4 ngàn quân. Khi mùa mưa tới, Khmer Đỏ đã tái tổ chức lực lượng, chỉ huy và huấn luyện, bắt đầu các cuộc giao tranh qui mô nhỏ như đánh du kích, phục kích, pháo kích quấy rối.
Tới năm 1985, Việt Nam huy động khoảng 60 ngàn quân cho chiến dịch tấn công, cùng với hàng chục ngàn dân công Campuchia xây đường và mở rộng các sân bay dã chiến tại khu vực biên giới. Cuối tháng 12/1984, khoảng 1.000 quân Việt Nam đánh hạ căn cứ Nong Samet.
Tháng 1/1985, khoảng 4.000 quân Việt Nam, với hơn 30 xe tăng và xe bọc thép hỗ trợ, đánh vào căn cứ Ampil của lực lượng KPNLF với 5.000 quân phòng ngự và triệt hạ hoàn toàn căn cứ này sau 36 giờ. Quân Việt Nam và quân chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia cũng mở chiến dịch triệt hạ căn cứ lớn của Khmer Đỏ tại Phnom Malai. Chiến dịch mùa khô năm 1984-1985 là chiến dịch lớn chưa từng có của Việt Nam kể cả về qui mô, thời gian và mức độ thành công.
Kể từ năm 1986, các lực lượng này về cơ bản không thể là mối đe dọa lớn đối với chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia được nữa.
Năm 1989, Cộng hòa Nhân dân Campuchia đã đủ mạnh để tự bảo vệ. Tháng 12 cùng năm, Quân đội nhân dân Việt Nam hoàn thành nghĩa vụ quốc tế, rút toàn bộ khỏi Campuchia.
Campuchia hồi sinh mạnh mẽ
Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Hoàng gia Campuchia Men Sam On từng nói: “Nhắc lại chiến thắng ngày 7/1, Campuchia không thể quên sự hy sinh to lớn của quân tình nguyện Việt Nam trên đất nước mình. Mồng 7/1 là ngày sinh thứ hai của Campuchia”.
Chiến thắng Tập đoàn Polpot, dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng sau thời kỳ đen tối 3 năm 8 tháng 20 ngày dưới chế độ Khmer Đỏ. Hơn 2 triệu người dân Campuchia đã bị giết hại, mọi cơ sở xã hội bị xóa bỏ tận gốc trong thời gian này vì chính sách lãnh đạo cực đoan, tàn bạo, cưỡng bức người dân, bắt lao động khổ sai của Polpot.
Nhắc lại chiến thắng này, nhân dân Campuchia không thể nào quên công ơn của các chiến sĩ cứu quốc Campuchia, mặt trận giải phóng Campuchia và sự hy sinh to lớn của quân tình nguyện Việt Nam, các chuyên gia Việt Nam trên đất nước Campuchia.
Trong những tháng ngày đen tối đó, Polpot cũng có dã tâm phát động cuộc chiến tranh đẫm máu xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ Việt Nam. Đáp lại lời kêu gọi khẩn thiết của Mật trận Đoàn kết Cứu nước Campuchia, của nhân dân Campuchia anh em, Đảng, Nhà nước dân dân và quân đội Việt Nam đã thực hiện quyền tự vệ chính đáng bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng và giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, đưa đến thắng lợi ngày 7/1/1979. Với thắng lợi đó, nhân dân Campuchia đã khép lại một trang lịch sử đen tối và mở ra kỷ nguyên độc lập, hòa bình, tự do và phát triển.
36 năm qua, Campuchia đang chuyển mình mạnh mẽ để trở thành một quốc gia năng động, đầy tiềm năng, thống nhất và tiến lên bình đẳng xã hội. Campuchia đã góp phần vào sự phát triển hòa bình, ổn định của khu vực và thế giới. Thủ tướng Chính phủ Hoàng gia Campuchia Hun Sen cũng khẳng định lập trường của Campuchia về quyết tâm tăng cường, củng cố mối quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện lâu dài với Việt Nam.
36 năm là một chặng đường vẻ vang rất đỗi tự hào của mối quan hệ láng giềng hữu nghị, truyền thống tốt đẹp của hai nước. Nhìn lại chặng đường qua, quan hệ tốt đẹp giữa hai nước đang ngày càng đơm hoa kết trái; kết quả hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư và nhiều lĩnh vực khác đã và đang mang lại hiệu quả thiết thực, ngày càng đi vào thực chất. Những thành tựu đó không chỉ mang lại niềm hạnh phúc cho nhân dân mỗi nước mà còn vì hòa bình, ổn định, hợp tác phát triển ở khu vực và thế giới.
Trong 10 năm (1979 – 1989), chuyên gia Việt Nam đã tận tụy đem hết tài năng, trí tuệ giúp cách mạng Campuchia, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế trọng đại với tinh thần vô tư trong sáng cao cả chưa có tiền lệ trong lịch sử ngoại giao thế giới. Qua đó, hai nước càng hiểu rõ hơn tình hữu nghị, đoàn kết của hai dân tộc. Đó thật sự là mối quan hệ láng giềng thủy chung son sắt.