KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, THỜI ĐẠI CỦA CHIẾN THẮNG 30 THÁNG 4

Năm nay, trong những ngày hướng đến kỷ niệm Chiến thắng lịch sử vĩ đại 30/4/1975, nhân dân ta đón mừng sự kiện này với nhiều niềm vui mới. Theo báo cáo của Chính phủ, kinh tế Việt Nam năm 2018 khởi sắc trên cả ba khu vực sản xuất, cung - cầu của nền kinh tế cùng song hành phát triển.

NHẬN DIỆN VÀ NGĂN NGỪA THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG LÒNG YÊU NƯỚC ĐỂ KÍCH ĐỘNG NGƯỜI DÂN XUỐNG ĐƯỜNG BIỂU TÌNH, GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Người yêu nước chân chính là người biết sử dụng pháp luật, đạo đức, truyền thống tốt đẹp để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, đồng thời phải biết tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Nhận diện được phương thức, thủ đoạn lợi dụng lòng yêu nước để kích động nhân dân làm việc xấu chính là nhằm đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp, đồng thời tránh được sự lợi dụng đó để gây ra rối loạn xã hội, phức tạp tình hình.

Thông cáo báo chí kỳ họp 32 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Từ ngày 03 đến 06/12/2018 tại Hà Nội, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã họp kỳ 32. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương chủ trì kỳ họp.

UBKTTW kết luận vụ AVG: Sai phạm của ông Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn là rất nghiêm trọng

UBKTTW vừa họp kỳ 26 kết luận vụ AVG có những vi phạm của Ban cán sự đảng Bộ TT-TT, ông Nguyễn Bắc Son, ông Trương Minh Tuấn, ông Phạm Đình Trọng, của Ban Thường vụ Đảng ủy Mobifone và các ông Lê Nam Trà, Cao Duy Hải là rất nghiêm trọng.

Bốn kỳ vọng thay đổi lớn về công tác cán bộ sau 4 ngày Hội nghị T.Ư 7

Sau 4 ngày làm việc, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng được dư luận đặc biệt quan tâm, trong đó có công tác cán bộ, bởi đây là vấn đề “nóng” trong tình hình hiện nay.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Trường Sa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trường Sa. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2020

MỘT PHA KHẲNG ĐỊNH CHỦ QUYỀN SIÊU TO KHỔNG LỒ!!!


Mới đây trong một Video quảng cáo của hãng sữa đậu nành Fami, công ty này đã âm thầm khẳng định chủ quyền một cách "rất nhẹ nhàng" khi đưa hình ảnh bản đồ Việt Nam cùng 2 quần đảo thân thương lên sóng.
Không những thế, tên quần đảo không chỉ là ký hiệu nhỏ thông thường mà là 2 chữ TRƯỜNG SA. HOÀNG SA to như thế này luôn này. Thế mà có "ông hàng xóm" cứ nhận vơ như thật ấy.


Như Ngọc

TRƯỜNG SA, THÁNG 4 LỊCH SỬ - HAI LIỆT SĨ ĐẦU TIÊN Ở TRƯỜNG SA


'Để treo được ngọn cờ cách mạng lên Trường Sa, chúng ta đã hi sinh hai người. Một người hi sinh ngay tại đảo Song Tử Tây. Một người bị thương, theo tàu về đất liền và hi sinh'.


Cựu chiến binh Đào Mạnh Hồng, chứng nhân ở Trường Sa tháng 4 lịch sử năm 1975, ngậm ngùi kể lại.

Đó là liệt sĩ Tống Văn Quang và Ngô Văn Quyền.

Không một bức ảnh để thờ

45 năm trước, khi đi Trường Sa, ông Phan Xuân Ạp là trợ lý tham mưu tiểu đoàn đặc công 471 của Quân khu 5. "Khi đánh đảo, lực lượng hỏa lực DKZ của chúng tôi đi cùng để hỗ trợ cho ba mũi đặc công của hải quân. Quang trong mũi đổ bộ đầu tiên. Cậu ấy là khẩu đội trưởng DKZ", ông Ạp cho hay.

Cuộc chiến kéo dài 30 phút rất ác liệt, hạ sĩ Tống Văn Quang hi sinh năm anh mới 22 tuổi.

Cựu chiến binh Nguyễn Ngọc Quế kể giây phút tiễn biệt người đồng đội mới biết tên sáng 14-4-1975: "Lúc đó gần sáng rõ rồi. Anh em tổ chức chôn cất cậu ấy ngay Song Tử Tây, định sau này đưa về. Đồng đội lấy tăng võng bọc lại rồi đào huyệt cát chôn chứ lúc đó không có quan tài đâu. Anh em trên đảo nổ súng chia buồn, tiễn biệt đồng đội".

Chúng tôi tìm trong bản trích lục thông tin về quân nhân hi sinh, mất tin, mất tích trong chiến tranh của Cục Chính sách (Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam) và hiện ra những dòng thông tin về liệt sĩ đầu tiên ở Trường Sa: liệt sĩ Tống Văn Quang sinh năm 1949 (tuổi thật là sinh năm 1953 - PV) tại xã Cao Ngạn, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Bắc Thái. Nhập ngũ tháng 5-1972. Ngày đi B: tháng 8-1972. Đơn vị: C12, D6, E38, F2 (Quân khu 5). Cấp bậc: hạ sĩ. Ngày hi sinh 14-4-1975, trong trường hợp: chiến đấu. Nơi hi sinh: đảo Song Tử Tây.

Mong muốn tìm hiểu về người liệt sĩ ấy, chúng tôi tìm về quê hương anh. Bắc Thái là tỉnh cũ. Xã Cao Ngạn, huyện Đồng Hỷ giờ thuộc tỉnh Thái Nguyên.

Hai cụ thân sinh liệt sĩ Quang đã mất từ lâu. Ông Tống Văn Ngọc, 73 tuổi, anh trai liệt sĩ Quang, cho biết anh Quang là con thứ năm.

"Chú Quang đẻ được ba ngày thì bố mất. Nhà tôi có hai người đi bộ đội. Tôi đi chiến trường B3 tháng 4-1966. Tôi vừa về thì chú Quang đi", ông Ngọc nói.

Người chị dâu của liệt sĩ Quang xúc động kể: "Tôi và mẹ chồng đồ xôi gánh đến đơn vị tiễn chú Quang thì nghe nói đơn vị đã hành quân đến ga Đồng Quang trú chân. Hai mẹ con lại tất tưởi chạy đến nhưng cũng không kịp.

Chú Quang đi bộ đội từ năm 1972 rồi đi một mạch. Từ lúc nhập ngũ cho đến khi đi chiến đấu không có tin tức, thư từ gì. Đến khi chú ấy hi sinh gia đình nhận giấy báo tử mới biết...".

Tuổi 20 hi sinh ở Trường Sa

Người thứ hai hi sinh ở Trường Sa tháng 4-1975 là hạ sĩ Ngô Văn Quyền, 20 tuổi, chiến sĩ đặc công của trung đoàn đặc công hải quân 126.

Mấy chục năm nay, ông Đào Mạnh Hồng (69 tuổi, hiện sống ở TP Hải Phòng) không dám tìm gặp thân nhân liệt sĩ Quyền.

"Khi đưa con người ta từ Bắc vào Nam chiến đấu thì mình đưa đi, nhưng khi con người ta hi sinh thì mình không biết. Đến chỗ chôn ở đâu mình cũng không biết. Về gặp gia đình cậu ấy, tôi biết ăn nói thế nào...", người cựu binh thở dài.

45 năm trước, đánh đảo Song Tử Tây, ông Đào Mạnh Hồng là phân đội trưởng phân đội 1 (đại đội 1 - trung đoàn đặc công hải quân 126) và thân thiết nhất với hạ sĩ Quyền. Chiến trận Song Tử Tây kéo dài 30 phút nhưng 15 phút đầu rất ác liệt.

"Quyền trong tổ chiến đấu đầu tiên cùng tôi. Cậu ấy là người che đạn cho tôi. Đáng lẽ viên đạn đó găm vào tôi... Tôi đang lao về phía trước thì Quyền đi sau phát hiện đối phương trong giao thông hào giơ súng nhô ra, cậu ấy lao lên đỡ đạn cho tôi...", người cựu chiến binh rớm nước mắt khi nhớ lại khoảnh khắc không thể quên ấy.

Tiểu đội trưởng Ngô Văn Quyền bị một viên đạn găm vào bụng vẫn cùng đồng đội tiếp tục chiến đấu. "Mấy phút sau quay lại, tôi hỏi thì Quyền bảo em không sao. Thấy Quyền bị thương, tôi để cậu ấy nằm nghỉ, còn mọi người thu dọn chiến trường", ông Hồng kể tiếp.

45 năm đã trôi qua, người cựu chiến binh giải phóng đảo nhớ mãi đêm trước khi chia tay người em, người đồng đội thân thiết về đất liền.

"Tôi và Quyền trải võng ra trong hầm vòm, nằm cạnh nhau tâm sự. Quyền nói sau này chiến tranh kết thúc, anh em mình giao lưu thường xuyên chứ các đồng đội kia ở xa quá chắc ít gặp. Tôi bảo đời quân ngũ mình chỉ có một thời điểm nhất định thôi. Sau này trên quãng đường còn lại, anh em mình thế nào cũng gặp nhau", ông Hồng kể.

Ngày hôm sau, hạ sĩ Quyền theo tàu chở hàng binh về Đà Nẵng. Lúc này anh đau đến nỗi không đi được. Ông Hồng phải bế ra xuồng để đưa lên tàu.

"Lúc đó tôi ôm Quyền khóc - ông Hồng xúc động nhớ lại giây phút chia tay mà không ngờ là lần gặp nhau cuối cùng. Tôi bảo em cứ an tâm điều trị, anh em mình sẽ gặp lại nhau khi cùng tiến vào Sài Gòn. Nó còn cười bảo: các anh cứ yên tâm ở lại. Em khỏe là theo đơn vị chiến đấu ngay".

Một tháng sau khi về Sài Gòn, ông Hồng mới biết hạ sĩ Ngô Văn Quyền đã hi sinh. "Không ai nghĩ Quyền sẽ hi sinh. Nhưng nó lại hi sinh...", người cựu binh bần thần nói.

"Chúng tôi nghe đồng đội anh Quyền kể chỉ còn 35 hải lý nữa vào đến Đà Nẵng thì tàu bị chết máy. Nếu suôn sẻ thì ba ngày về đến đất liền, nhưng tàu chết máy mất sáu ngày mới vào đến bờ.

Dọc đường anh tôi cứ gọi tên bố mẹ, các em, rồi anh hát những bài hát quê hương Hải Phòng. Trên đường chuyển đến Bệnh viện Đà Nẵng, máu chảy nhiều quá, anh hi sinh khi chưa kịp vào bệnh viện...", ông Ngô Văn Đại, em trai liệt sĩ Quyền, xúc động kể.

Bà Ngô Thị Huế, 62 tuổi, em gái liệt sĩ Quyền, rưng rưng hồi tưởng người anh đã khuất: "Anh Quyền hiền lành, học giỏi lắm. Từ lớp 1 đến lớp 7 năm nào cũng đứng đầu lớp. Anh đi học về là ra đồng chăn trâu, 13 - 14h mới về.

Nhà chỉ có bát cơm nguội phần anh. Sau này anh đi làm thuê trên Lào Cai, mỗi lần về là tắm rửa cho các em. Làm thuê mấy năm, có lệnh nhập ngũ là anh đi". Và rồi anh Quyền của bà đã đi mãi không về...


Anh Ngô Văn Quyền (bên phải) chụp cùng bạn thân Nguyễn Đắc Lưu khi còn huấn luyện ở Quảng Ninh
Liệt sĩ Tống Văn Quang đã được chuyển mộ về đất liền năm 1985.






Như Ngọc

Thứ Hai, 22 tháng 7, 2019

LỰA CHỌN GIẢI PHÁP HÒA BÌNH TRƯỚC HÀNH VI XÂM PHẠM CHỦ QUYỀN CỦA TRUNG QUỐC?

       Thời gian qua, dư luận khu vực và quốc tế đang chú ý theo dõi phản ứng của Việt Nam, Trung Quốc và Mỹ liên quan vụ đối đầu tại Bãi Tư Chính giữa các tàu Trung Quốc và Việt Nam ở Biển Đông, khi tàu khảo sát địa chất của Trung Quốc vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam gần quần đảo Trường Sa. Tàu Hải Dương 8 cùng với các tàu bảo vệ và tàu hải cảnh Trung Quốc Haijing 35111 đã có các hoạt động trong khu vực Tư Chính - Vũng Mây, gần với lô 06-01 của Việt Nam. Dù đây không phải là vùng biển tranh chấp mà là vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam.


       Cho đến nay, chưa có khẳng định chính thức nào về động cơ của Trung Quốc lần này. Đây có thể đơn thuần là động thái thể hiện cái gọi là “chủ quyền” sau khi đã quân sự hóa các đảo nhân tạo bất chấp luật pháp quốc tế, Trung Quốc luôn tìm mọi cách hạn chế hoặc ngăn chặn Việt Nam thăm dò, khai thác năng lượng trong vùng biển mà Trung Quốc coi là “khu vực tranh chấp”. Hay có thể đây là hành động thăm dò phản ứng, gây sức ép với Việt Nam, trong bối cảnh Việt Nam đang có uy tín, vị thế nhất định trên trường quốc tế nhờ tuân thủ đường lối đối ngoại đa phương, độc lập, tự chủ. Quan hệ Việt - Mỹ và các nước phương Tây tiếp tục có những bước phát triển có lợi cho hai bên. Hoặc đánh lạc hướng dư luận trong nước, “chuyển lửa ra ngoài” như lâu nay vẫn làm, trong bối cảnh kinh tế trong nước đang chịu đựng cú sốc lớn từ chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, biểu tình ở Hồng Kông, quan hệ Mỹ - Triều có nhiều tiến triển đe dọa đến vai trò Trung Quốc trên báo đảo Triều Tiên, quan hệ Đài Loan bất ổn… 
       
       Ngày 19/7, Bộ Ngoại giao Việt Nam ra thông cáo chính thức thứ hai liên quan tới vụ việc này trong tuần qua, trong đó kêu gọi sự ủng hộ của các nước khác. Đáng chú ý, khác với sự kiện HD-981 lần trước, lần này Mỹ lên tiếng chỉ trích Trung Quốc một ngày sau khi Bộ Ngoại giao Việt Nam ra thông cáo chính thức thứ hai liên quan tới vụ việc này trong tuần qua. Còn Trung Quốc, trước đó vào ngày 12/7 vẫn tuyên bố rằng "Trung Quốc kiên quyết bảo vệ chủ quyền và quyền hàng hải trên Biển Đông”. Tuy nhiên, sau khi bị Việt Nam nêu đích danh hôm 19/7, đến nay chưa thấy có phản ứng gì từ phía Trung Quốc. 

       Các sự việc diễn ra gần đây tuy phức tạp nhưng vẫn chưa đến mức tranh chấp căng thẳng cực độ. Bất chấp các hoạt động khiêu khích của Trung Quốc, Việt Nam hiện vẫn đang hết sức bình tĩnh và kiên trì không sử dụng vũ lực. Theo nhận định của nhiều chuyên gia đăng tải trên báo chí quốc tế (kể cả BBC và VOA), đây là một hành động hết sức khôn ngoan và sáng suốt của Việt Nam. Bởi, để đối phó với Trung Quốc, quốc gia luôn biết cách tính toán để viện ra cớ “đóng vai nạn nhân”, thì các hành vi trái với pháp luật như sử dụng vũ lực, sẽ làm tiền đề để Trung Quốc lấn tới. Việt Nam đã lựa chọn biện pháp hòa bình để giải quyết. Từ phát ngôn trực tiếp của lãnh đạo trong các cuộc gặp ngoại giao, trao đổi công hàm, nêu vấn đề trong các hội nghị quốc tế, vận dụng cơ chế làm việc của các tổ chức quốc tế mà Việt Nam là thành viên để kêu gọi sự ủng hộ của bạn bè quốc tế…Ngoài ra, Việt Nam có thể cân nhắc sử dụng cơ chế hòa giải bắt buộc đối với các vấn đề liên quan đến nghiên cứu khoa học theo phụ lục V Công ước về Luật Biển 1982, hay việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc ở phụ lục VII của Công ước về các vấn đề pháp lý liên quan khác trong hai sự kiện trên. 

       Việc Việt Nam thể hiện thái độ thận trọng là đương nhiên, bởi nếu nghiên cứu qua thông tin báo chí, đánh giá của các chuyên gia và diễn biến hiện trường có thể thấy ngay cả Trung Quốc cũng dường như tránh đề cập trực tiếp đến tranh chấp lần này. Việc tuyên bố mạnh mẽ có thể khiến các kênh đối thoại đang diễn ra khó khăn hơn, và có thể dẫn đến việc lợi dụng sự kiện này để lôi kéo người dân tụ tập tuần hành, biểu tình dưới danh nghĩa “yêu nước”, chống Trung Quốc, nhưng thực chất là tiến hành bạo loạn, tấn công lực lượng chức năng; đập phá tài sản người dân, nhà nước, doanh nghiệp; xâm phạm trụ sở cơ quan công quyền; khiến tình hình an ninh trật tự rơi vào trạng thái mất kiểm soát và hậu quả kinh tế vô cùng nặng nề. Điều này thể hiện rất rõ bản chất khủng bố của các tổ chức, cá nhân tham gia kích động. 

       Cần nhớ rằng với hàng loạt thành công ngoại giao từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, vị thế của Việt Nam nay đã khác, không dễ bị lấn áp và cô lập. Trong khi đó, Trung Quốc với những hành động bất chấp luật pháp quốc tế, quên mất di ngôn “ẩn mình chờ thời”, giờ có nguy cơ rơi vào cảnh “tứ bề thọ địch”. Huống chi Việt Nam suốt hàng nghìn năm qua và hàng chục năm gần đây đã quá quen với những động thái gây hấn của Trung Quốc. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn từng nói “lấy đoản binh để thắng trường trận”, lấy những dẫn chứng về quá trình chống giặc ngoại xâm của dân tộc để nhận định: "Họ cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được”. 

       Lời của Hưng Đạo Vương cũng là lời nhắc hãy giữ bình tĩnh, sáng suốt trong thể hiện lòng yêu nước. "Bờ yên biển mới lặng", giữ hòa bình là để làm ra tiền của, để chăm lo tốt nhất cho con em chúng ta, để không phụ xương máu bao anh hùng liệt sĩ đã đánh đổi. Chúng ta không sợ Trung Quốc nhưng phải đủ khôn ngoan để đối phó với họ như cha ông từng dạy. Đừng lấy đá tự đập chân mình!
    Lam Vân

Thứ Tư, 19 tháng 6, 2019

HOÀNG SA - TRƯỜNG SA - BIỂN ĐÔNG, KHẢ NĂNG GIỮ VỮNG VÀ KHẢ NĂNG THU HỒI.

Tất cả các nước phát triển trên thế giới đều là các quốc gia Biển. Đảng ta đã xác định chủ trương phát triển kinh tế Biển: “Việt Nam phải trở thành một quốc gia Biển, phải mạnh lên từ Biển, vươn ra Biển, làm giàu từ Biển”. Biển Đông có giá trị vô cùng to lớn, là cửa ngõ, là con đường để chúng ta vươn lên sánh ngang với các cường quốc Năm Châu như mong ước của Bác. Chúng ta phải làm gì? Chúng ta phải giữ vững chủ quyền, chuẩn bị các điều kiện cần và đủ để từng bước giành lại chủ quyền hợp pháp của mình với những đảo đã bị chiếm giữ trái phép.

HOÀNG SA - TRƯỜNG SA - BIỂN ĐÔNG, KHẢ NĂNG GIỮ VỮNG VÀ KHẢ NĂNG THU HỒI.

Vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông đã có nhiều người đặt ra những câu hỏi thắc mắc, có người không nhận được câu trả lời thỏa đáng, đã vậy họ lại bị các thế lực thù địch xuyên tạc dắt mũi để kích động chống phá gây khó khăn thêm cho công cuộc giữ nước, thậm chí vô tình tiếp tay cho kẻ thù có thời cơ chiếm thêm lãnh thổ nước mình.

Ở PHẠM VI BÀI VIẾT NÀY, TÔI XIN TRAO ĐỔI VỚI CÁC BẠN ĐỂ TA CÙNG TRẢ LỜI CHO 3 CÂU HỎI:
1. QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ MỘT SỐ ĐẢO THUỘC QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA ĐÃ BỊ XÂM CHIẾM NHƯ THẾ NÀO?
2. KHẢ NĂNG GIỮ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA TA HIỆN NAY?
3. KHẢ NĂNG THU HỒI CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO ĐÃ BỊ CHIẾM?

Trả lời cho câu hỏi thứ nhất:
QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ MỘT SỐ ĐẢO THUỘC QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA BỊ XÂM CHIẾM NHƯ THẾ NÀO?
Lịch sử cho thấy kể từ lần thứ nhất năm 1946, trong tình thế đất nước ta ngàn cân treo sợi tóc trước sự trở lại của người Pháp và đó cũng là lúc Liên Hiệp Quốc yêu cầu người Trung Quốc (đó là 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch) đến giải giáp quân Nhật. Lúc đó, khoảng trống có lợi cho Trung Quốc, họ ra đòn. Họ cũng tranh thủ chiếm luôn đảo Phú Lâm (thuộc quần đảo Hoàng Sa) và đảo Ba Bình (thuộc quần đảo Trường Sa). Năm 1949, Trung Quốc giải phóng thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, họ đã tiếp tục lộ rõ ý đồ chiếm các đảo của Việt Nam.
Lần thứ hai vào năm 1956, sau hiệp định Geneva, người Pháp phải rút đi, để lại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho chính quyền tay sai Mỹ tiếp quản, quân đội Ngụy lúc này chưa mạnh, chưa có tàu nên Trung Quốc chiếm gần như toàn bộ phần phía đông của quần đảo Hoàng Sa. Lần thứ ba là năm 1959 họ ra đòn nhưng không thành công. Trung Quốc mang quân qua chiếm nốt phần phía Tây của quần đảo Hoàng Sa nhưng Ngụy quân VNCH đã có mặt ở đó.
Lần thứ tư là năm 1974, Trung Quốc mang quân tấn công phần phía tây quần đảo Hoàng Sa đang do quân đội Ngụy VNCH quản lý. Theo tài liệu của Bộ Ngoại giao Việt Nam, trong chuyến thăm của Tổng thống Nixon tới Trung Quốc năm 1972, Trung Quốc đã thoả thuận với chính quyền Nixon một cuộc mua bán bẩn thỉu trên lưng nhân dân Việt Nam, thể hiện trong Thông cáo Thượng Hải. Theo đó, Trung Quốc mưu toan dùng “con bài Việt Nam” để ngoi lên địa vị một cường quốc lớn, bình thường hoá quan hệ Trung - Mỹ và giải quyết vấn đề Đài Loan. Còn chính quyền Nixon có thể cứu vãn và khôi phục địa vị trên thế giới đã bị suy yếu nghiêm trọng do hậu quả của cuộc chiến tranh Việt Nam và bắt đầu thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”. Do vậy, chính quyền Nixon đã không có bất cứ động thái nào đáp ứng lời cầu cứu của chính quyền VHCN khi quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc xâm lược. Đã vậy, Mỹ còn trực tiếp can thiệp không cho Thiệu dùng không quân tại Đà Nẵng ra đánh chiếm lại Hoàng Sa. Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn đe dọa cắt viện trợ, buộc Thiệu phải thu hồi lệnh.
Ngày 14/3/1988, quân đội chúng ta vẫn đang làm nhiệm vụ thời chiến ở biên giới Tây Nam và phía Bắc. Thời điểm đó, chúng ta cũng bị cấm vận bốn bề, bị bao vây cô lập không khác gì Triều Tiên hiện nay khi chỉ có 13 nước ủng hộ ta, còn lại đều lên án ta xâm lược Campuchia do nghe theo Mỹ và Trung Quốc tuyên truyền. Thời cơ đó Trung Quốc đã đưa quân vào chiếm đảo Gạc Ma ở quần đảo Trường Sa.

Trả lời cho câu hỏi thứ hai:
KHẢ NĂNG GIỮ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO CỦA TA HIỆN NAY?

Âm mưu của Trung Quốc và quyết tâm của ta?
Đảng ta đã nhận định: “Độc chiếm Biển Đông là âm mưu xuyên suốt các đời lãnh đạo Trung Quốc”. Từ năm 1946 đến nay Trung Quốc đã 5 lần đánh chiếm đảo của ta trên Biển Đông.
Ngày nay, Trung Quốc còn âm mưu đó không hẳn ai cũng rõ. Tham vọng đường lưỡi bò và quân sự hóa Biển Đông là một minh chứng nhưng ít ai biết rằng Lãnh đạo Trung Quốc đã hỏi Tướng lĩnh Quân giải phóng Trung Quốc: “Nếu đánh chiếm toàn bộ Trường Sa thì có chiếm được không, bao lâu thì chiếm được?”
Hiện nay, Trung Quốc đang âm mưu TẠO THẾ, TẠO LỰC và CHỜ THỜI để độc chiếm Biển Đông.
VỀ TẠO THẾ, Trung Quốc đang xây dựng thế trận liên hoàn từ Không quân, Hải quân, thế bố trí chiến lược các lực lượng và điểm tựa trên Biển Đông, kể cả sử dụng Campuchia như một con bài gây sức ép vào sau lưng Việt Nam cũng nằm trong thế trận chúng dựng lên.
VỀ TẠO LỰC, Trung Quốc đã cải tổ Quân đội, giảm vai trò của Lục quân, tập trung tăng cường phát triển Hải quân. Quân sự hóa các đảo đã chiếm giữ, xây dựng sân bay, cảng trú cho tàu thuyền, đưa tên lửa và ra đa lên các đảo ở Biển Đông, đóng mới hàng loạt chiến hạm, tàu sân bay...
VỀ CHỜ THỜI, theo các bạn, khi nào là thời cơ để họ đánh chiếm đảo của ta? Nhìn lại những lần Trung Quốc đánh chiếm đảo của ta thì chúng ta thấy, họ đều tận dụng thời cơ đất nước chúng ta loạn lạc, suy yếu, bị bao vây cô lập để đánh chúng ta. Tương lai cũng sẽ như thế, họ đợi chúng ta mất ổn định chính trị xã hội, đất nước rối loạn kích động thế giới can thiệp cô lập. Đó là thời cơ để ra tay. Họ có đủ thế, đủ lực nhưng thời cơ chưa đến thì họ không bao giờ ra tay. Vì vậy, phải giữ vững hòa bình, ổn định cho đất nước, không để xảy ra bạo loạn diện rộng để kẻ thù có thời cơ thôn tính biển đảo của ta. Đó là lý do, nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tiếp xúc cử tri Thành phố Hồ Chí Minh đã nói: “Đồng bào hãy yêu nước bằng cái đầu lạnh và trái tim nóng”, có như thế thì ta mới đủ tỉnh táo, sáng suốt để đấu trí với kẻ thù. Các cụ đã dạy: “Cả giận, mất khôn”, khi cái đầu nóng thì hành xử sao khôn ngoan được, chỉ tạo cớ cho kẻ thù mà thôi.
Về quyết tâm của ta: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khi tiếp xúc cử tri đã nói: “Mất đảo là mất nước”. Vậy mất nước thì chúng ta sẽ làm gì? Các bạn đã có câu trả lời cho mình rồi.
Âm mưu của địch là vậy, quyết tâm của ta là thế. Vậy khả năng của ta đến đâu?
Xét ở mặt đối tượng. Ở thế đối đầu 2 quốc gia bất kỳ thì người ta xét trên 4 mặt sức mạnh răn đe: Một là, răn đe về kinh tế, hai là răn đe về ngoại giao, ba là răn đe về chính trị, bốn là răn đe về quân sự.
Về kinh tế, quy mô nền kinh tế Trung Quốc gấp 86 lần Việt Nam, với ta là con Trâu thì với họ chỉ là bó rau muống. Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam hoàn toàn không lệ thuộc kinh tế Trung Quốc, đòn kinh tế không răn đe được Việt Nam.
Về ngoại giao, Việt Nam ở thế chính nghĩa, được cả thế giới ủng hộ, trừ một vài nước bị khống chế về lợi ích với Trung Quốc mà có tiếng nói bất lợi cho Việt Nam. Ví dụ trong vụ giàn khoan Hải Dương 981, cả thế giới đứng về phía Việt Nam, đó là kết quả của cuộc đấu tranh ngoại giao và tuyên truyền quyết liệt. Về ngoại giao, trong vụ này Trung Quốc đã thua ta.
Về chính trị, chính trị Trung Quốc có nét tương đồng Việt Nam, đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Tuy nhiên, Trung Quốc không răn đe được Việt Nam về chính trị. Bằng chứng là Việt Nam đã đập lại Trung Quốc năm 1979 khi Trung Quốc xâm phạm biên giới Việt Nam. Thực tế, trong lịch sử chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa duy trì được sự độc lập khi không chấp nhận cho Trung Quốc đem quân tới Việt Nam trực tiếp tham chiến hoặc can thiệp vào đường lối chiến lược của mình. Có những lúc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã từ chối nhận viện trợ của Trung Quốc nếu khoản viện trợ đó đi kèm những điều kiện được xem là vi phạm chủ quyền của Việt Nam. Trung Quốc đã từng đề nghị đưa cả chục vạn dân quân sang xây dựng đảm bảo toàn bộ tuyến đường Trường Sơn cho Việt Nam nhưng Việt Nam đã từ chối dù lúc đó ta rất cần. Ngày nay thì sao? Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng tranh cãi trực tiếp với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Hồ Cẩm Đào về chủ quyền Biển Đảo. Bước vào Hội nghị, ông Đào nói: “Tây Sa, Nam Sa là chủ quyền của Trung Quốc, nếu Trung Quốc không thu hồi thì nhân dân Trung Quốc không tin vào Đảng Cộng sản Trung Quốc”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói: “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, nếu Đảng Cộng sản Việt Nam không giữ được chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa thì nhân dân Việt Nam cũng không tin Đảng Cộng sản Việt Nam. Đài Loan là của Trung Quốc, Trung Quốc không thu hồi tại sao nhân dân Trung Quốc vẫn tin Đảng Cộng sản Trung Quốc?” Hồ Cẩm Đào cứng lưỡi không biết nói gì, nhìn lên trần nhà (theo lời kể của Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn nguyên Cục trưởng Cục Tuyên huấn).
Về quân sự, Trung Quốc được đánh giá mạnh gấp 10 lần Việt Nam. Binh pháp Tôn Tử chỉ ra: “Phép dụng binh, gấp mười lần địch thì bao vây, gấp năm lần địch thì tấn công, gấp đôi chì chia ra mà đánh, bằng địch thì phải đánh khéo, kém địch thì rút, tránh giao tranh với địch. Binh yếu mà đánh thẳng tất bị bắt làm tù binh”. Nhưng với Việt Nam thì phép dụng binh này của Tôn Tử không áp dụng được vì Việt Nam chuyên đánh với thằng mạnh gấp trăm lần mình, chứ 10 lần ăn thua gì.
 Đảng ta xác định: “Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tập trung xây dựng Hải quân, PKKQ, thông tin tác chiến điện tử tiến thẳng lên hiện đại”. Vậy chúng ta đã làm gì để xây dựng tiềm lực quân sự đủ sức răn đe:
Về vũ khí:
Với Hải quân, chúng ta đã mua 6 tầu ngầm Ki lô 636, đặt thêm những tính năng hiện đại vượt trội, đặc biệt là khả năng phóng tên lửa đối đất Club B, loại tên lửa hải đối đất này có tầm bắn tới gần 280km, sức hủy diệt vô cùng lớn, đủ để xóa sổ 1 đảo nhỏ hay đánh chìm một chiếm hạm lớn cỡ tàu sân bay chỉ bằng 1 phát bắn, làm tê liệt căn cứ tầu ngầm, tàu mặt nước của đối phương. Đó là lý do, Trung Quốc điên cuồng tìm cách ngăn chặn Việt Nam sở hữu loại tên lửa này, tiếc cho Trung Quốc là hợp đồng đã được ký và tên lửa đã được chuyển giao cho Việt Nam trước khi Trung Quốc kịp can thiệp. Bên cạnh tầu ngầm ta trang bị nhiều tầu mặt nước có khả năng tác chiến mạnh, tốc độ cao, hỏa lực mạnh với những cú đốt chết người như “Tia chớp- Molniya ” Gepard 3.9, và rất nhiều tàu tên lửa nhỏ “Ong độc”, nhỏ nhưng bay cực nhanh và đốt cực đau.
Với dải bờ biển dài, chiều sâu phòng thủ biển nằm trong tầm tên lửa bờ (tên lửa đất đối hải), đó là ưu thế lớn. Chúng ta có 1 chiến hạm không bao giờ chìm đó chính là đất liền. Bộ 3 hệ thống tên lửa phòng thủ bờ cực mạnh của Hải quân Việt Nam gồm Redut-M, 4K51 Rubezh và tổ hợp K-300P Bastion-P, bán kính tác chiến từ 300km đến 500km. Tổ hợp K-300P Bastion-P là hiện đại nhất, đầu đạn nặng gần 1 tấn, tốc độ bay lớn, độ chính xác cao, uy lực cực mạnh, đủ để xé đôi một chiến hạm cỡ lớn chỉ với 1 phát bắn. Đến nay, Mỹ vẫn chưa có biện pháp hiệu quả để khắc chế loại tên lửa này.
Với PKKQ, ta có các máy bay hiện đại Su -30 MK2 có bán kính tác chiến bao trùm Đông Nam Á, được thiết kế chuyên tác chiến Biển, là loại tiêm kích đa năng mang bom, tên lửa đối không và đặc biệt là tên lửa đối hải diệt tàu mặt nước hiện đại với uy lực lớn. Về tên lửa phòng không ta có nhiều loại, nhiều tầng, nhiều lớp, hiện đại nhất là S -300 PMU1 và tương lai sẽ trang bị hiện đại hơn.
Bên cạnh việc mua sắm vũ khí ta cũng đẩy mạnh nghiên cứu chế tạo, những năm qua ta đã cử hàng nghìn học viên đi nghiên cứu học tập về khoa học chế tạo vũ khí ở Nga và các nước phát triển đồng thời tiếp nhận bàn giao công nghệ, tự phát triển công nghệ chế tạo tên lửa các loại đủ để tự chủ vũ khí hiện đại trong tương lai, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc.
Về chiến thuật tác chiến biển:
Ta sử dụng chiến thuật tác chiến phi đối xứng, chống tiếp cận để phát huy tối đa lợi thế địa hình của ta. Ngoài ra ta có khả năng khống chế Biển Đông, khóa chặt đường Biển, đánh vào hậu cần của địch. Ta biết rằng 1/3 lượng hàng hóa của thế giới đi qua Biển Đông, 2/3 lượng hàng hóa và dầu khí Trung Quốc nhập khẩu để duy trì nền kinh tế đều đi qua Biển Đông. Nếu thiếu dầu khí và hàng hóa 3 tháng thì kinh tế Trung Quốc khủng hoảng. Máy bay, tầu chiến Việt Nam cứ nện cho chìm vài chiếc tàu hàng Trung Quốc thì bố nó cũng không dám chạy qua nữa. Đó cũng là lý do, “Tướng Trung Quốc báo cáo lãnh đạo Trung Quốc là chiếm Trường Sa 1 tuần là được nhưng không giữ được. Lãnh đạo Trung Quốc nói, chiếm không giữ được thì chiếm làm gì”. Nếu nó đánh ta gãy 1 tay mà ta cứ ôm tay khóc là nó đánh ngay, nhưng nếu nó đánh ta gãy 1 tay mà ta lại đấm nó gẫy răng thì nó sẽ phải suy nghĩ lại. Gẫy răng thì sẽ không được đẹp trai lại còn phải húp cháo cả tuần. Nó sẽ phải cân nhắc.

Trả lời cho câu hỏi thứ ba:
KHẢ NĂNG THU HỒI CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO ĐÃ BỊ CHIẾM?

Câu hỏi đặt ra là chúng ta thu hồi chủ quyền Hoàng Sa bằng vũ lực hay bằng cách nào?
Thực lực quân sự của ta không thể dùng vũ lực để thu hồi. Vậy chúng ta có thể dựa vào một nước lớn khác như Mỹ để dùng vũ lực được không? Chúng ta không thể dựa vào Mỹ, lịch sử Mỹ chỉ chuyên đi xé nhỏ các nước chứ chưa bao giờ giúp nước nào mở rộng lãnh thổ. Chúng ta cũng không quên Mỹ đã bắt tay Trung Quốc bán Hoàng Sa ngay trên lưng chúng ta. Mỹ cũng xui dại Ucraina tiêu hủy các chiến hạm hải quân, các máy bay và tên lửa chiến lược để nhận sự bảo kê của Mỹ. Kết quả, Nga thu hồi C-rưm, Mỹ giương mắt ếch lên nhìn, Mỹ chỉ to mồm xui dại trẻ con chứ Mỹ dại gì xung đột quân sự trực tiếp với Nga, chẳng có lợi ích kinh tế gì, ú ớ mà gấu Nga điên lên thì chỉ có vỡ mồm. Lượng vũ khí hạt nhân của Trung Quốc chỉ đứng sau Nga, 1 phần nhỏ phát nổ cũng đưa trái đất về kỷ băng hà. Mỹ đang sống sướng, tội gì phải chết.
Vậy thu hồi bằng cách nào?
Chỉ có 1 con đường là đấu tranh bằng pháp lý. Muốn đấu tranh thắng lợi phải biết đợi thời cơ để ra đòn quyết định. Quá trình chờ thời là quá trình ta xây dựng, chuẩn bị thế và lực chứ không phải đứng yên chờ thời. Giống như Cách mạng tháng Tám 1945, nếu nổ ra sớm, thời cơ chưa đến chúng ta sẽ thất bại. Philippines kiên Trung Quốc thắng lợi nhưng kết quả chẳng làm gì được Trung Quốc. Trung Quốc có thể vượt Mỹ nhưng thời điểm đó chắc chắn luật pháp quốc tế trong đó có Luật biển sẽ có hiệu lực mạnh hơn. Tiếng nói của các nước được tôn trọng hơn. Trong khi đó Trung Quốc cũng còn rất nhiều vấn đề phải giải quyết, Trung Quốc còn vấn đề dân tộc, vấn đề các khu tự trị, vấn đề Đài Loan... năm 1930-1931 chẳng ai biết được thời cơ Tổng khởi nghĩa sẽ đến vào năm 1945. Hiện nay chúng ta cũng không thể biết khi nào là thời cơ để chúng ta kiện Trung Quốc và ra đòn quyết định, có thể 5 năm, 10 năm hoặc lâu hơn nữa nhưng thời cơ nhất định tới, chỉ cần chúng ta đoàn kết và tự tin, giữ cho đất nước ổn định và phát triển thì thời cơ sẽ đến. Dùng cái đầu nóng, dùng bạo lực hay dựa hết vào ngoại bang giúp đỡ thì chẳng những không có cơ hội thu hồi mà có thể chúng ta còn mất cả những những đảo đang đứng chân.
NGUYỄN MẠNH TUÂN

Thứ Tư, 1 tháng 8, 2018

NGƯỜI CẮM CỜ GIỮ ĐẢO LEN ĐAO.



Ông là người đầu tiên trong tổ chiến đấu của tàu HQ-605 bơi lên đảo Len Đao (Trường Sa) cắm cờ đỏ sao vàng khẳng định chủ quyền VN vào sáng sớm 14/3/1988.

NGƯỜI CẮM CỜ GIỮ ĐẢO LEN ĐAO.

Sau trận đánh, ông về quê (xã Tiên Thắng, huyện Tiên Lãng, TP. Hải Phòng) sống lặng lẽ với nghề sửa xe đạp ven đường làng...

Sinh năm 1966, mới 19 tuổi (tháng 2/1985) ông Vũ Văn Nga nhập ngũ, học ngành cơ điện ở Trường TC Kỹ thuật Hải quân và cuối 1986 nhận nhiệm vụ tại tàu HQ-605 thuộc Lữ đoàn 125.

Chuyến đi biển đầu tiên của ông Nga là kéo pông tông ra chốt giữ, xây dựng nhà cao chân trên đảo Thuyền Chài. Sau đó là liên tục những chuyến tàu chở công binh, vật liệu xây dựng, hàng hóa đến các đảo trên quần đảo Trường Sa.

Đầu tháng 2/1988, thực hiện nhiệm vụ CQ-88, tàu HQ-605 chở vật liệu và khung xây dựng đảo ra chốt giữ Đá Đông trong hơn một tháng trời trong sự thiếu thốn từ nước ngọt đến đồ ăn.

Đêm 13/3, tàu HQ-605 được lệnh nhổ neo khỏi Đá Đông đến đảo Len Đao lúc 4 giờ 30. Thuyền trưởng Lê Lệnh Sơn hạ xuồng cho thuyền phó Phan Hữu Doan dẫn các chiến sĩ Trần Quang Ngọc, Vũ Văn Nga, Nguyễn Văn Dũng, Phạm Văn Thưởng mang theo 5 khẩu súng AK, 2 lá cờ bơi vào cắm tại điểm nhô cao nhất của đảo Len Đao. Hoàn tất việc cắm cờ lúc khoảng 6 giờ, cả tốp chèo xuồng về tàu nhưng thuyền trưởng cử thượng úy chính trị viên tàu Khổng Ngọc Quang xuống thay cho anh Doan lên tàu, chuyển thêm lương khô, can nước 20 lít và ra lệnh cho cả nhóm: “Ăn sáng rồi quay lại giữ đảo, tình hình rất căng”.

Nửa đường từ tàu HQ-605 vào điểm đã cắm cờ thì phía Trung Quốc nổ súng. Đạn pháo bắn tới tấp vào buồng thông tin trên đài chỉ huy, sau đó là tới hầm máy. Tàu Trung Quốc chỉ cách HQ-605 mấy trăm mét nên có những quả đạn bắn xuyên qua tàu, lao vào đảo nổ ngay cạnh khiến mấy anh em trên đảo bị sức ép văng xuống biển.

Giữa ùng oàng tiếng súng, pháo, Chính trị viên Khổng Ngọc Quang động viên chiến sĩ Vũ Văn Nga đang lập cập vì nước biển lạnh, mặt lem luốc khói đạn, cùng ông thay nhau lặn xuống biển buộc xuồng vào đá san hô để giữ xuồng chuẩn bị cứu sinh.

Bắn phá trong khoảng một tiếng đồng hồ, thấy tàu HQ-605 cháy đùng đùng nên tàu Trung Quốc ngừng bắn, lượn một vòng quan sát rồi bỏ mục tiêu, sang Cô Lin cùng tấn công tàu HQ-505. Lúc này, Chính trị viên phó tàu HQ-605 Tống Xuân Quân (sau này là đại tá, Chính ủy Lữ đoàn tàu tên lửa 162, Vùng 4 Hải quân, mới về nghỉ hưu tại TP.Đà Lạt, Lâm Đồng) bơi từ tàu vào gọi cả nhóm đi xuồng: “Anh em bị thương nhiều lắm, rơi hết xuống biển và đang kết nhau thành bè chờ cứu sinh. Chúng ta mau đi cứu”.

Gần 2 tiếng đồng hồ tìm vớt nhau, cả tàu mới gần đủ quân số. Những người lên được xuồng đều dán vào nhau nhường diện tích chật hẹp cho thuyền phó Doan bị bỏng nặng và ngâm nước biển lâu, cả thân hình phồng rộp đỏ ửng, cùng thương binh Vũ Văn Sáu chân bị gãy chỉ còn dính da…

Sau trận đánh ngày 14/3/1988, quân số các tàu tham gia chiến đấu đều được đưa ngay về bờ, chỉ để lại ít người chốt trực và hướng dẫn thợ lặn tìm kiếm đồng đội hy sinh, trục vớt tàu chìm. Tàu HQ-605 phân công ông Nga cùng 3 chiến sĩ ở lại. Bên tàu HQ-604 cũng có 2 người. Liên tục những ngày sau đó, các ông đưa hết đoàn này đoàn khác từ đảo Sinh Tồn ra Gạc Ma, Len Đao làm nhiệm vụ.

“Thời gian đầu, chúng tôi còn nhìn thấy rõ HQ-605 mờ mờ nằm nghiêng dưới đáy biển. Cứ động viên các anh thợ lặn chui vào trong tàu tìm kiếm chiến sĩ báo vụ Bùi Duy Hiển, nhưng không được vì phòng thông tin bị bắn bẹp dúm, dây nhợ chằng chịt” - ông Nga kể lại.

Đến đầu tháng 5/1988, việc tìm kiếm mới tạm hoàn tất và ông Nga được rời vùng chiến sự, đặt chân lên cảng Cam Ranh sáng 07/5/1988.

Chị Vũ Thị Tuyết, chị gái ông Nga, kể chiều 14/3/1988, Đài tiếng nói VN đọc số hiệu tàu HQ-605 bị bắn cháy và danh sách cán bộ chiến sĩ bị mất tích nhưng không có tên ông Nga. Cả làng Lộc Trù đổ xô sang nhà động viên mẹ Phạm Thị Bỉ ngồi đau đớn. Phải đến đầu tháng 4/1988, khi thương binh Vũ Văn Sáu được đưa về Quân y viện 175, TP.HCM và các y bác sĩ tìm thấy mẩu giấy trong túi áo anh ghi vỏn vẹn mấy chữ: “Tôi là Vũ Văn Nga, tàu HQ-605 chiến đấu ngoài Trường Sa, ở lại làm nhiệm vụ chưa về được. Xin báo giúp gia đình là tôi còn sống”, thì tin lành về ông Nga mới được gửi điện tín ra TP. Hải Phòng, kịp cứu bà mẹ đang suy kiệt.

Đầu tháng 5/1988, vừa bước chân lên bờ, ông Nga và những người ở lại giữ tàu, giữ đảo được giải quyết về phép ngay tức thì. “Ga hồi bao cấp đông đặc, không mua được vé. Tôi phải trình bày là vừa đánh trận 14/3 giờ mới được về thăm quê. Nghe vậy, mọi người giãn ra nhường đường và trưởng ga ưu tiên bán ngay một vé nằm ra Hà Nội” - ông Nga nhớ lại và nghẹn giọng: “Về tới ga Hải Phòng, chị gái đạp xe ra đón nhưng giữa đường thủng săm, phải dắt xe đi bộ gần 20 km từ chiều, đến đêm mới tới nhà. Mẹ vẫn ngồi cạnh đèn dầu ngoài cổng gọi tên con. Ôm mẹ, tôi mới chắc mình còn sống”.

Sống cho 64 anh em, dù vất vả

Ngày 20/5/1990, Thượng sĩ Vũ Văn Nga phục viên về địa phương sau hơn 5 năm phục vụ trong quân đội. Thời gian đầu về quê xã Tiên Thắng (H.Tiên Lãng, TP. Hải Phòng), ông Nga tập trung chăn nuôi. Nhưng vốn ít, không có kỹ thuật nên lứa heo nào cũng lỗ vốn. Ông chuyển sang đánh dậm khắp các cánh đồng trong xã, đêm nào cũng lọ mọ đến sáng bạch mới đổ giỏ cho mẹ tất tưởi mang ra chợ huyện bán, phụ tiền mua gạo.

Thương cậu em trai duy nhất trong nhà vất vả, năm 1993 vợ chồng chị cả Vũ Thị Tuyết đi vay mượn mua bộ đồ nghề sửa xe đạp, vận động mãi ông Nga mới chịu ra dựng lều ven đường tỉnh 212, đem kiến thức cơ điện tàu hải quân ngày ngày bơm vá sửa xe đạp, xe máy cho người qua đường.

Nhưng nỗi vất vả cứ bám chặt vào hạnh phúc gia đình người lính Trường Sa. Năm 1993, ông Nga lấy vợ người Thái Bình, sinh được 2 cậu con trai (1992, 1995), đến 2008 thì vợ mất. Mấy năm sau ông đi bước nữa, lấy cô vợ gần nhà để đỡ cô độc và giờ họ đã có thêm 1 cậu con trai vừa tròn 7 tuổi.

NGƯỜI CẮM CỜ GIỮ ĐẢO LEN ĐAO.

Tôi bay từ Sài Gòn ra Hải Phòng hỏi tìm người cắm cờ trên đảo Len Đao, theo hồi ức của các cựu binh tàu HQ-605. Nghe tôi hỏi, người đàn ông nhem nhuốc áo thợ rạng ngời khuôn mặt và rướn người lên tường nhà, lấy xuống khung Huân chương Chiến công hạng ba nâng niu lau sạch bụi bặm. Đây là Huân chương Chủ tịch Hội đồng nhà nước thưởng cho ông Nga do “đã có thành tích xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu bảo vệ quần đảo Trường Sa” vào năm 1988.

“Mọi người cứ nói tôi đi xin chế độ. Nhưng tôi không. Vất vả thế nào thì cũng vẫn còn được sống và mình sống đến giờ, là cũng sống cho 64 anh em đồng đội vẫn nằm dưới lòng biển, vẫn dõi mắt ngóng theo tôi suốt 30 năm nay” - ông Nga nói, mắt ánh lên sự cương trực của một người lính…

Thứ Bảy, 7 tháng 7, 2018

SỰ CẦN THIẾT CỦA LUẬT AN NINH MẠNG


Vừa qua, không rõ là vô tình hay cố ý mà Facebook đã cung cấp cho người sử dụng một bản đồ, trong đó các huyện đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam lại nằm trong lãnh thổ Trung Quốc. 

SỰ CẦN THIẾT CỦA LUẬT AN NINH MẠNG

Sau khi phát hiện, Bộ Thông tin và Truyền thông đã gửi Công văn cho Facebook, khẳng định: “Việc Facebook sử dụng bản đồ sai lệch về chủ quyền quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam như trên đã vi phạm nghiêm trọng quy định tại khoản 1, Điều 5, Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15-7-2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng”; đồng thời, yêu cầu sửa đổi thông tin sai lệch này. Sau khi sửa đổi, tuy Facebook bỏ 2 quần đảo này ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc nhưng vẫn gọi nó là Tam Sa (theo cách gọi của Trung Quốc đối với 2 quần đảo này). Bên cạnh đó, Facebook lại giới thiệu Tam Sa là thành phố được Trung Quốc thành lập ngày 24/7/2012 để quản lý khu vực bao gồm: quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa, bãi Macclesfield và bãi cạn Scarborough cùng vùng biển xung quanh.

Việc làm của Facebook trong thời điểm này là vi phạm nghiêm trọng Nghị định số 72/2013/NĐ-CP, nhưng vẫn không được giải quyết dứt điểm khi phía Việt Nam yêu cầu một đường, họ sửa chữa một nẻo. Nếu sự việc diễn ra sau ngày 01/01/2019, thì Facebook đã vi phạm nghiêm trọng Luật An ninh mạng vừa được Chủ tịch nước ký ban hành ngày 28/6/2018. Khi đó, phía Việt Nam có đủ điều kiện để sử dụng Điều 5, khoản 1, điểm h và i Luật này nhằm: ngăn chặn, yêu cầu ngừng cung cấp thông tin mạng; yêu cầu xóa bỏ thông tin trái pháp luật hoặc thông tin sai sự thật trên không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Hoặc sử dụng Điều 5, khoản 1 điểm m để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự

Luật An ninh mạng mặc dù đã ban hành, nhưng đến đầu năm 2019 mới có hiệu lực thi hành, thành ra khó cho ta trong xử lý Facebook trong trường hợp này. Điều đó cho thấy, quản lý các hoạt động trên mạng bằng Luật An ninh mạng để bảo đảm quyền lợi cho các bên là đòi hỏi khách quan và cực kỳ cần thiết. Thế mà một số người lại ngớ ngẩn cứ ra sức phản đối sự ra đời của Luật này là sao? Đã sáng mắt chưa?

Thứ Sáu, 6 tháng 7, 2018

CHÚNG TA CÓ MẤT ĐẢO HAY KHÔNG?



1. Đối với Hoàng Sa.

Muốn biết Hoàng Sa đã mất như thế nào có lẽ các bạn nên hỏi Mỹ là rõ nhất. Như các bạn đã biết, VNCH đã để mất toàn bộ Hoàng Sa vào tay Trung Quốc. Năm 1974, chính Mỹ đi đêm với Trung Quốc rồi làm ngơ cho Trung Quốc chiếm toàn bộ Hoàng Sa từ tay VNCH. Nhưng Chính phủ CHXHCN Việt Nam ta vẫn trước sau như một tuyên bố chủ quyền với Hoàng Sa. Ngư dân ta vẫn ngày đêm ra Hoàng Sa đánh bắt để khẳng định chủ quyền mặc dù bị tàu TQ xua đuổi và húc chìm, nhưng tuyệt nhiên không bao giờ chửi bộ đội và lính của ta hèn.

CHÚNG TA CÓ MẤT ĐẢO HAY KHÔNG?
Quần đảo Hoàng Sa
Quân với dân ta hàng ngày vẫn đấu tranh để khẳng định chủ quyền, những va chạm đâm húc vẫn xảy ra hàng ngày hàng giờ. Nếu không tin, hè này các bạn làm ngay chuyến du lịch ra Lý Sơn rồi tiếp xúc hỏi han ngư dân đánh bắt tại ngư trường Hoàng Sa xem tình quân dân của họ khăng khít, hỗ trợ nhau như nào nhé! Vậy mà người trong bờ đọc mấy tin tức kích động rồi cứ gào lên ăn vạ chửi cả Đảng, chửi cả Chính phủ hèn. Chúng ta nên hiểu, tranh chấp lãnh thổ trên biển là vấn đề hết sức nhạy cảm, không phải động tí là lái tàu chiến ra mà bắn nhau, nó sẽ ảnh hưởng đến tồn vong của cả dân tộc. Với tiềm lực của Việt Nam so với TQ hiện nay cũng không thể đem quân đội đánh chiếm lại HS được đúng không ạ? Chỉ cần nhẹ nhàng thế này, TQ nó chả cần đánh đâu, nó đã chặn luôn dòng chính sông Mekong bằng 7 cái đập thuỷ điện khổng lồ rồi, giờ nó chỉ cần không xả xuống thôi là hàng chục triệu dân Đồng bằng Sông Cửu Long coi như ngồi kêu thán.

Chắc hẳn các bạn đều biết đến câu ca "Chín dòng Cửu Long nuôi lớn các con thơ" hay câu ca "Chín dòng Cửu Long như chín con Rồng" chứ? Như thế là các bạn hiểu tầm quan trọng của con sông Mekong như thế nào rồi đấy. Thế nên những ai đòi cướp lại HS bằng máu của các chiến sĩ bộ đội thì hãy tìm hiểu kỹ hơn đi trước khi thể hiện mình bằng võ mồm.

2. Đối với Trường Sa

Quân đội nước CHXHCN Việt Nam chỉ để mất duy đảo chìm Gạc ma năm 1988 (trong một lần tử thủ kiên quyết giữ đảo - 64 chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng). Từ đó đến nay chưa bị mất thêm đảo nào, thậm chí Việt Nam là nước giữ và bồi đắp thêm nhiều đảo nhất ở Trường Sa.

CHÚNG TA CÓ MẤT ĐẢO HAY KHÔNG?
Quần đảo Trường Sa
Việt Nam liên tục xây dựng các căn cứ quân sự hậu cần của mình và tăng số lượng kiểm soát trên các đảo, từ 5 đảo ban đầu tiếp nhận từ tay VNCH, hiện chúng ta đã kiểm soát và quản lý trên 21 rạn san hô và đảo đá, 14 cơ sở trên các bãi cạn, vậy thử hỏi là bán đảo hay thu về???? Và cũng nói lại cho rõ: Việt Nam đang là nước giữ và quản lý nhiều đảo nhất ở Trường Sa!!! Quân đội ta vẫn ngày đêm nắm chắc tay súng canh giữ chủ quyền biển đảo cho quê hương, thậm chí Chính phủ ta còn xây dựng rất nhiều nhà giàn giữa biển khơi để canh giữ vùng biển của ta. Mọi người thấy nước nào giữ biển bằng cách xây dựng nhà giàn giữa biển chưa? Giông bão, thiếu thốn đủ bề vẫn bám trụ, vậy mà có một cơ số người trong bờ thì cứ tuyên truyền và khẳng định như đinh đóng cột rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của TQ rồi, Chính phủ VN bán hết đảo. Nếu là một người hiểu chuyện thử hỏi khi nghe bọn chống phá xuyên tạc như thế có bất bình không?

--------------

Ở hội nghị ASEAN vừa rồi Việt Nam ta là nước lên án mạnh mẽ nhất việc TQ quân sự hoá ở Biển Đông. Việt Nam cũng là nước hăng hái nhất vận động các nước ra Bộ quy tắc ứng xử chung ở Biển Đông (COC). Chính phủ ta cũng không ngừng đưa vấn đề TQ quân sự hoá biển Đông đến khắp các diễn đàn quốc tế lớn nhỏ, từ song phương tới đa phương. Chúng ta cũng đưa vấn đề này vào tất cả các tiếp xúc quan hệ ngoại giao quốc tế với tất cả các nước trên thế giới. Gặp nước nào Chính phủ ta cũng kêu gọi duy trì ổn định hoà bình ở Biển Đông, để kéo sự ủng hộ cho Việt Nam. Chính phủ ta cũng hợp tác với rất nhiều nước để khai thác tài nguyên ở Biển Đông như Nga, Mỹ, TBN... nhằm kéo lợi ích của các quốc gia đó vào Biển Đông. Hàng ngày các tàu cảnh sát biển, kiểm ngư của ta vẫn trực chiến để bảo vệ ngư dân, bảo vệ việc khoan thăm dò và khai thác tài nguyên trước việc phá hoại của tàu TQ. Vậy mà có một bộ phận không nhỏ trong bờ vẫn cứ vênh mồm lên gào ra rả chửi Đảng, chửi Chính phủ bán biển đảo cho TQ, đòi phải “mạnh tay”, đòi phang TQ bằng máu và sinh mạng chiến sĩ...

Đảng và Chính phủ ta đấu tranh bằng hoà bình và luật pháp quốc tế, khẳng định độc lập chủ quyền bằng quan hệ quốc tế và vị thế trên chính trường quốc tế, chứ không phải bằng cách mang quân đội, tàu chiến và sinh mạng chiến sĩ bộ đội ra phang nhau với TQ rồi để TQ có cớ gây chiến với Việt Nam. Chưa biết thắng thua nhưng chắc chắn Việt Nam sẽ tụt hậu cả trăm năm. Vì thế các bạn hãy dừng ngay cái tư tưởng hung hăng, rằng chúng ta đang sợ TQ, rồi bài TQ đi. Bởi vì dù thế giới có xoay chuyển như thế nào đi nữa chúng ta vẫn phải sống cùng "anh bạn láng giềng" to xác và xấu tính kia.

Tiện đây cho hỏi, đi biểu tình chống TQ có đòi lại được đảo nào không các bạn yêu nước? Có làm TQ nó yếu thêm tí nào không, hay chỉ làm cho chính nội tình đất nước chúng ta thêm phần rối ren? Các bạn chưa rõ sự tình, chưa rõ vấn đề đã kéo nhau xuống đường gây hỗn loạn. Các bạn làm như thế chẳng khác nào "gà nhà đang đá gà nhà". Chưa có phát súng nào của giặc ngoại xâm nổ ra nhưng trong nhà đã đổ máu và đầy thương tích. Dân tộc ta vốn có truyền thống yêu nước thương nòi và tinh thần đoàn kết của dân tộc ta luôn là biểu tượng cho bạn bè thế giới noi theo. Vì vậy các bạn đừng tự mình làm mất đi những hình ảnh đẹp, thân thiện, nhân ái của đất nước Việt Nam thân yêu trong mắt bạn bè quốc tế bằng những việc làm trái mắt người chứng kiến.

Cuối cùng chỉ mong tất cả chúng ta NÊN ĐỌC, HIỂU ĐÚNG VÀ HÀNH ĐỘNG ĐÚNG.

Thứ Tư, 14 tháng 3, 2018

VÌ SAO KHÔNG CHIẾM LẠI GẠC MA?


Sao không chiếm lại Gạc Ma? Rất nhiều người nêu câu hỏi đó, khi nhắc về một phần của máu thịt Việt Nam bị Trung Quốc chiếm đóng ngày 14/3/1988. Nhưng vì sao chỉ hỏi “sao không chiếm lại Gạc Ma”? Xin giới thiệu bài viết của nhà báo Nguyễn Đình Quân.

VÌ SAO KHÔNG CHIẾM LẠI GẠC MA?


Sao không chiếm lại Gạc Ma ? Nếu người hỏi chỉ thấy mỗi đảo Gạc Ma, không nhìn xa hơn, rộng hơn, sẽ chẳng có câu trả lời nào lọt tai họ.
Ngoài bãi san hô Gạc Ma, từ đầu năm 1988 đến tháng 3/1988, Trung Quốc đã chiếm các bãi “Chữ Thập, Châu Viên, Ga Ven, Su Bi, Huy Ghơ” ở quần đảo Trường Sa? Thay vì hỏi sao không lấy lại các đảo đó, tại sao chỉ hỏi “sao không chiếm lại Gạc Ma”? Để trả lời cho những câu hỏi này tôi đã tìm gặp những nhân chứng sống để có câu trả lời thỏa đáng nhất.
Đại tá Nguyễn Văn Dân, nguyên Phó Tham mưu trưởng Vùng 4 Hải quân, người chỉ huy cụm 2 Trường Sa (cụm Sinh Tồn, bao gồm Gạc Ma, Len Đao, Cô Lin) trong chiến dịch CQ-88 để trả lời câu hỏi này của tôi.
Nói năm 1988 mình thả lỏng để Trung Quốc chiếm đảo là hoàn toàn sai. Tôi là người trong cuộc, tôi rất hiểu. Mình chủ yếu là tàu vận tải, phương tiện thô sơ, đi ra đến đúng đảo chủ yếu là nhờ kinh nghiệm, xác định định vị dựa vào các tàu buôn lớn của nước ngoài. Cố gắng rất lớn. Vì đảo là đảo chìm, một bãi cạn mênh mang. Ý chí, quyết tâm của mình lớn, nhưng tiềm lực, khả năng của mình hạn chế. Phải thừa nhận với nhau chuyện đó. Nhưng không có chuyện thả lỏng Trung Quốc nó muốn làm gì thì làm. Quần đảo Trường Sa quá rộng, các điểm đảo cách nhau rất xa, mình chủ trương đóng giữ tất cả các đảo, nhưng phải chú ý đóng giữ các đảo lớn, bãi chìm lớn trước, bãi nhỏ sau, chứ với lực lượng và khả năng của mình lúc đó không thể cùng một lúc làm tất cả, buộc lòng phải có thứ tự từng việc. Nhiệm vụ của tôi là xây dựng xong hai nhà cao chân trên Đá Đông thì lên Ga Ven; làm xong nhà ở Ga Ven, nếu còn lực lượng, còn phương tiện thì mới giải quyết nốt Chữ Thập… Mà đúng cái mùa gió ghê gớm, thời tiết khắc nghiệt. Khi đi, tôi nói với sở chỉ huy, Liên Xô có phương tiện, mình phải nhờ để có gì họ cứu hộ cứu nạn với mình. Lúc sóng gió nguy cơ nhất, liên tục báo về tọa độ tương đối, để có gì là Liên Xô ra cứu hộ cứu nạn…
Người ta cứ thắc mắc, sao mình không đánh lại ở Gạc Ma? Thực ra mà nói, mình không có phương tiện để đánh. Như cái 605, có hai bệ pháo 40 ly của Mỹ ở mũi tàu nhưng đã cũ rồi, đạn từ thời Mỹ, chưa chắc còn nổ được; còn mấy tàu thuộc dạng tốt thời VNCH thì sau 30/4/1975 đã bị chính những người bỏ trốn đánh chiếm một số, số khác bị họ dùng để vượt biển qua Mỹ. Ngoài ra một số tàu họ còn đem tặng không cho nước khác khi thua chạy. Thứ hai, tàu Trung Quốc nó đậu cách mấy hải lý, nó dùng pháo lớn bắn vào mình. Mình bắn lại nó, cũng không bắn tới.

Sao mình không đưa tàu chiến ra?

Mình khẳng định chủ quyền của mình, đưa ra chủ yếu là các phương tiện vận tải, anh em công binh ra giữ chủ quyền. Chứ mình không đưa tàu chiến ra để đối đầu, nổ súng. Chủ quyền là của mình, mình có trách nhiệm tiếp tục đóng giữ, bảo vệ. Chủ trương của mình là vậy. Có đưa tàu chiến ra Trường Sa, là để tăng cường hỗ trợ bảo vệ. Khi mình có chủ trương tiến hành làm nhà cao chân trên tất cả các đảo chìm, mình dùng từ “đóng giữ”, vì chủ quyền của mình rồi, chứ không phải mình “chiếm đóng”. Chính vì quan điểm đó, nên chúng tôi dù khó khăn mấy cũng làm, bằng phương tiện thô sơ của mình.
Còn Trung Quốc, họ muốn có chủ quyền bằng sức mạnh. Tức là, một cái tàu đưa người định chiếm đóng đảo nào thì có tàu chiến khác đi cùng, thậm chí là tàu tuần dương, như tàu 064, 062. Họ đi đâu đều có phương tiện đồng bộ, sẵn sàng nổ súng. Nếu lúc đó mình đưa tàu chiến ra, tình hình trở nên phức tạp hơn. Có thể xảy chiến tranh, khốc liệt hơn, mà hy sinh của mình lớn hơn. Vì Trung Quốc nó có phương tiện đầy đủ hơn. Nó đánh từ xa, phóng tên lửa từ xa, từ tàu tuần dương, tàu khu trục cỡ lớn.
Khi chiến sự xảy ra, lực lượng Liên Xô không tham gia, vì sẽ làm vấn đề trở nên phức tạp. Họ chỉ giúp mình xác định tọa độ, cung cấp cho mình các phương tiện, báo cho mình thông tin về lực lượng của nó. Chứ họ không ra mặt ở đó được. Tôi nghĩ, lúc đó nếu Liên Xô vào, là cái cớ để lực lượng Mỹ cũng có mặt, thì trở nên còn phức tạp nữa. Tranh chấp chủ quyền ở Trường Sa, đâu chỉ có Việt Nam và Trung Quốc.

Không chiếm lại các đảo bị Trung Quốc chiếm, ta làm gì?

Năm 1975, Việt Nam đóng giữ 5 đảo ở quần đảo Trường Sa: Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa.
Năm 1978, Việt Nam đóng giữ thêm 4 đảo: An Bang (10/3/1978), Sinh Tồn Đông (15/3/1978), Phan Vinh (30/3/1978), Trường Sa Đông (04/4/1978). Tổng cộng đến năm 1978 ta đóng giữ 9 đảo ở quần đảo Trường Sa, đều là đảo nổi.
Ngày 05/31987, Hải quân Việt Nam đóng giữ đảo Thuyền Chài. Trong chiến dịch CQ88, trước ngày 14/3/1988, Hải quân Việt Nam đóng giữ thêm 7 đảo: Đá Tây (02/12/1987), Tiên Nữ (25/01/1988), Đá Lát (05/02/1988), Đá Đông (19/02/1988), Đá Lớn (20/02/1988), Tốc Tan (27/02/1988), Núi Le (28/02/1988).
Ngày 14/3/1988, ta đóng giữ thêm đảo Len Đao và đảo Cô Lin. Nhân đây cũng nói thêm về vài bài báo ca ngợi quân ta “chiếm lại Len Đao” là chưa đúng. Đảo Len Đao có bị Trung Quốc chiếm bao giờ đâu mà ta chiếm lại?! Ngày 14/3/1988, lực lượng ta trên tàu HQ-605 đã cắm được cờ trên bãi Len Đao, nhưng do Trung Quốc cản trở nên ta chưa thể dựng nhà được. Sau đó, trong thế hai bên rình rập nhau, ta đã khôn khéo chớp thời cơ, đổ người đổ phương tiện lên đóng giữ Len Đao, chỉ trong một đêm.
Ngày 15/3/1988, chỉ một ngày sau sự kiện 14/3/1988, ta không lấy lại được Gạc Ma, nhưng đóng giữ thành công đảo Đá Thị, một vị trí rất quan trọng ở cụm đảo Nam Yết.
Ngày 16/3, ta tiếp tục đóng giữ đảo Đá Nam. Tổng cộng trong CQ88, ta đóng giữ 11 đảo chìm, còn Trung Quốc đã chiếm đóng bằng vũ lực được 06 đảo (trong đó có Gạc Ma). Như vậy, phù hợp với thực lực và khả năng cũng như quyết sách của Đảng là không tạo cớ để các nước khác có ý đồ leo thang quân sự ở Biển Đông. Bằng phương pháp hòa bình và ý chí ta đã có thể đảm bảo được nhiệm vụ của CQ88 hoàn thành ở mức hoàn thành được nền tảng bảo vệ chủ quyền lãnh hải của Việt Nam.
Tháng 11/1988, Hải quân Việt Nam bắt đầu đóng giữ, bảo vệ khu vực DK1 ở thềm lục địa phía Nam.
Được, mất của ta sau CQ88 và sự kiện 14/3/1988, các bạn tự trả lời.

P/S: Nhân đây cũng thông não cho mấy con lợn này (xin lỗi đã xúc phạm con lợn!).

VÌ SAO KHÔNG CHIẾM LẠI GẠC MA?


Thứ Ba, 13 tháng 3, 2018

TỔ QUỐC MÃI GHI ƠN CÁC ANH


Nhân kỷ niệm 30 năm diễn ra trận chiến Gạc Ma, chúng ta hãy nối tiếp truyền thống cha anh quyết tâm giữ vững chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc!

Trong những tháng đầu năm 1988, lần đầu tiên Hải quân Trung Quốc cho quân chiếm đóng một số bãi đá thuộc khu vực tại quần đảo Trường Sa, chiếm giữ đá Chữ Thập (ngày 31/01), đá Châu Viên (ngày 18/02), đá Ga Ven (ngày 26/02), đá Tư Nghĩa (Huy Gơ) (ngày 28/02), Xu Bi (ngày 23/3). 

TỔ QUỐC MÃI GHI ƠN CÁC ANH


Hải quân Việt Nam đưa vũ khí, khí tài ra đóng giữ tại các đá Tiên Nữ (ngày 26/01), đá Lát (ngày 05/02), đá Lớn (ngày 06/02), đá Đông (ngày 18/02), đá Tốc Tan (ngày 27/02), đá Núi Le (ngày 02/3), bước đầu ngăn chặn được hành động mở rộng phạm vi chiếm đóng của hải quân Trung Quốc ra các đảo lân cận. Phía Việt Nam dự kiến Trung Quốc có thể chiếm thêm một số bãi cạn xung quanh cụm đảo Sinh Tồn, Nam Yết và phía đông kinh tuyến 115°.

Căn cứ vào tình hình xung quanh khu vực Trường Sa, Hải quân Việt Nam xác định: Gạc Ma giữ vị trí quan trọng, nếu để hải quân Trung Quốc chiếm giữ thì họ sẽ khống chế đường tiếp tế của Việt Nam cho các căn cứ tại quần đảo Trường Sa. Vì vậy, Thường vụ Đảng ủy Quân chủng hạ quyết tâm đóng giữ các đá Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao... Thường vụ Đảng ủy Quân chủng giao cho Lữ đoàn Vận tải 125 cử lực lượng thực hiện nhiệm vụ này.

Trong khi đó, hải quân Trung Quốc sau khi đưa quân chiếm đóng các rạn san hô Chữ Thập, Châu Viên, Ga Ven, Xu Bi, Tư Nghĩa cũng đang có ý đồ chiếm giữ ba đá Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao. Đầu tháng 3/1988, Trung Quốc huy động lực lượng của hai hạm đội xuống khu vực quần đảo Trường Sa, tăng số tàu hoạt động ở đây thường xuyên lên 9 đến 12 tàu chiến gồm: 1 tàu khu trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo, 2 tàu đổ bộ, 3 tàu vận tải hỗ trợ LSM, tàu đo đạc, tàu kéo và 1 pông tông lớn.

Trước tình hình đó, ngày 31/3, Tư lệnh Hải quân Việt Nam lệnh cho vùng 4, Lữ đoàn 125, Lữ đoàn 146, các hải đội 131, 132, 134 của Lữ đoàn 172 chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao. Đồng thời lệnh cho Vùng 1, Vùng 3 và Lữ đoàn 125 ở Hải Phòng chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu tăng cường. Bộ tư lệnh Hải quân điều động 41 tàu thuyền và phương tiện nổi của Lữ đoàn 125, Cục Kinh tế, Vùng 1, 3, 5, Trường Sĩ quan Hải quân Việt Nam (nay là Học viện Hải quân Việt Nam), nhà máy Ba Son... đến phối thuộc khi cần thiết.

Lúc 19 giờ ngày 11/3, tàu HQ-604 rời cảng ra đá Gạc Ma để thực hiện nhiệm vụ trong chiến dịch CQ-88 ("Chủ Quyền 88").

Ngày 12/3, tàu HQ-605 thuộc Lữ 125 do thuyền trưởng Lê Lệnh Sơn chỉ huy được lệnh từ đá Đông đến đóng giữ đá Len Đao trước 6 giờ ngày 14/3. Sau 29 tiếng hành quân, tàu 605 đến Len Đao lúc 5 giờ ngày 14/3 và cắm cờ Việt Nam trên đá san hô này.

Thực hiện nhiệm vụ đóng giữ các đá Gạc Ma và Cô Lin, 9 giờ ngày 13/3, tàu HQ-604 của thuyền trưởng Vũ Phi Trừ và tàu HQ-505 của thuyền trưởng Vũ Huy Lễ được lệnh từ đảo Đá Lớn tiến về phía Gạc Ma, Cô Lin. Phối hợp với hai tàu 505 và 604 có hai phân đội công binh (70 người) thuộc trung đoàn công binh 83, bốn tổ chiến đấu (22 người) thuộc Lữ đoàn 146 do Trần Đức Thông - Phó Lữ đoàn trưởng chỉ huy và bốn chiến sĩ đo đạc của Đoàn đo đạc và biên vẽ bản đồ (thuộc Bộ Tổng tham mưu). Sau khi hai tàu của Việt Nam thả neo được 30 phút, tàu hộ vệ của Hải quân Trung Quốc từ Huy Gơ chạy về phía Gạc Ma, có lúc đôi bên chỉ cách nhau 500 m.

17 giờ ngày 13/3, tàu Trung Quốc áp sát tàu 604 và dùng loa gọi sang. Bị uy hiếp, hai tàu 604 và 505 kiên trì neo giữ quanh đá. Còn chiến hạm của Trung Quốc cùng một hộ vệ hạm, hai hải vận hạm thay nhau cơ động, chạy quanh đá Gạc Ma.

Trước tình hình căng thẳng do hải quân Trung Quốc gây ra, lúc 21h ngày 13/3, Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam chỉ thị cho Trần Đức Thông, Vũ Huy Lễ, Vũ Phi Trừ chỉ huy bộ đội quyết giữ vững các đá Gạc Ma, Cô Lin. Tiếp đó Bộ Tư lệnh Hải quân chỉ thị cho lực lượng công binh khẩn trương dùng xuồng chuyển vật liệu xây dựng lên đá ngay trong đêm ngày 13/3. Thực hiện mệnh lệnh, tàu 604 cùng lực lượng công binh trung đoàn 83 chuyển vật liệu lên đá Gạc Ma; tiếp đó lực lượng của Lữ đoàn 146 bí mật đổ bộ, cắm cờ Việt Nam và triển khai bốn tổ bảo vệ đá.

Lúc này, Trung Quốc điều thêm hai hộ vệ hạm trang bị pháo 100mm đến hỗ trợ lực lượng đã đến từ trước, yêu cầu phía Việt Nam ta rút khỏi đá Gạc Ma. Ban chỉ huy tàu 604 họp nhận định: Trung Quốc có thể dùng vũ lực can thiệp và quyết định chỉ huy bộ đội bình tĩnh xử trí, thống nhất thực hiện theo phương án tác chiến đề ra, quyết tâm bảo vệ Gạc Ma.

Ngày 14/3, chiến sự diễn ra tại khu vực các đá Gạc Ma, Cô Lin, và Len Đao.

ĐÁ GẠC MA

Sáng ngày 14/3, từ tàu HQ 604 đang thả neo tại Gạc Ma, Thiếu tá Trần Đức Thông - Lữ đoàn phó Lữ đoàn 146 - phát hiện thấy bốn chiếc tàu lớn của Trung Quốc đang tiến lại gần. Tổ 3 người gồm thiếu úy Trần Văn Phương và hai chiến sĩ Nguyễn Văn Tư, Nguyễn Văn Lanh được cử lên đá bảo vệ lá cờ Việt Nam đang cắm trên bãi. Thiếu tá Trần Đức Thông gọi các đơn vị thức dậy để ăn sáng và chuyển vũ khí dưới hầm tàu lên lau chùi để chuẩn bị chiến đấu nếu Trung Quốc nổ súng trước.

Sáng sớm ngày 14/3/1988, khi tổ cắm cờ và giữ cờ gồm 5 người và khoảng 20 chiến sĩ công binh đang làm nhiệm vụ thì bất ngờ 4 tàu khu trục và hộ vệ tên lửa Trung Quốc chạy đến. Một tàu đậu ở xa, còn 3 tàu áp sát chừng 200-300m, Trung Quốc dùng xuồng máy đổ bộ vào 50 lính có trang bị súng AK.

Chỉ huy cụm đảo Trần Đức Thông ra lệnh cho các thủy thủ từ tàu 604 tiến về bảo vệ bãi để hình thành tuyến phòng thủ, hỗ trợ đồng đội, không cho đối phương tiến lên. Tổ cắm cờ và giữ cờ chúng ta gồm 5 người và khoảng 20 chiến sĩ công binh, do đang làm nhiệm vụ xây dựng nên chỉ mang theo 2 khẩu AK-47, gần 40 chiến sĩ chi viện cũng chỉ mang một số dụng cụ như xà beng, cuốc xẻng nhưng vẫn cố gắng bảo vệ cờ trước quân Trung Quốc. Hai bên giằng co với nhau bằng tay không một hồi. Sau đó sĩ quan Trung Quốc (cầm súng lục) nổ súng bắn chỉ thiên nhưng không có tác dụng, phía Trung Quốc bắt đầu hành động mạnh tay hơn.

Hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh bị lê đâm và bắn bị thương. Thiếu úy Trần Văn Phương bị bắn và hy sinh, trước khi hy sinh anh đã hô: "Thà hi sinh chứ không chịu mất đảo, hãy để cho máu của mình tô thắm lá cờ truyền thống của Quân chủng Hải quân".

Do Hải quân Việt Nam không chịu rút khỏi đá, lúc 7 giờ 30 phút, tốp lính Trung Quốc rút về tàu rồi dùng hai chiến hạm bắn pháo vào tàu 604. Tàu Trung Quốc đồng thời nhả đạn, hỏa lực gồm đủ loại từ trọng liên 12,7mm, pháo 37mm cho tới pháo 76,2mm, pháo 100mm, có cả dàn ống phóng rocket 12 nòng bắn vào tàu HQ-604 và lính Việt Nam trên đảo. Sau loạt đạn, gần như toàn bộ lính Việt Nam trên đảo không được trang bị vũ khí bị tiêu diệt. Sau đó, tàu Trung Quốc quay sang bắn cả tàu HQ-505 bên đảo Cô Lin và HQ-605 bên đảo Len Đao.

Sau đợt pháo kích, Hải quân Trung Quốc cho xuồng đổ bộ xông về phía tàu Việt Nam. Thuyền trưởng Vũ Phi Trừ chỉ huy quân trên tàu sử dụng các loại súng AK47, RPD, B-40, B-41 đánh trả quyết liệt khiến nhiều lính Trung Quốc thương vong, buộc đối phương phải bỏ xuồng nhảy xuống biển bơi trở về tàu.

Hải quân Việt Nam vừa chiến đấu, vừa tổ chức băng bó, cứu chữa thương binh và hỗ trợ các chiến sĩ bảo vệ cờ. Trung Quốc tiếp tục nã pháo cho đến khi tàu 604 của Việt Nam bị thủng nhiều lỗ và chìm dần xuống biển. Lữ đoàn phó Trần Đức Thông, thuyền trưởng Vũ Phi Trừ cùng một số thủy thủ trên tàu đã hi sinh cùng tàu 604 ở khu vực đá Gạc Ma.

Khi trời sáng rõ quân Trung Quốc mới rút khỏi đảo Gạc Ma. Lúc này Trung sĩ Lê Hữu Thảo và một số người còn lành lặn bơi ngược lại đảo tìm xác đồng đội và cấp cứu chiến sĩ bị thương. Chiếc xuồng vận tải bị đạn bắn thủng nên trung sĩ Thảo phải xé áo nhét lại để chèo chở thi thể trung úy Phương và thương binh Lanh về hướng tàu HQ-505. Đầu giờ chiều, xuồng của HQ-505 đến nơi đưa các chiến sĩ về tàu. Khi tàu về đến đảo Sinh Tồn, Binh nhất Lanh được chuyển bằng trực thăng vào đất liền cấp cứu và đã qua khỏi. Đến trưa 14/3, máy bay của Việt Nam bay trên bầu trời Gạc Ma nhưng tàu Trung Quốc đã đi khỏi.

ĐÁ CÔ LIN

Tại đá Cô Lin, lúc 6h ngày 14/3, tàu HQ-505 của Việt Nam đã cắm hai lá cờ trên đá. Khi thấy tàu 604 của Việt Nam bị chìm, thuyền trưởng tàu 505 Vũ Huy Lễ ra lệnh nhổ neo cho tàu ủi bãi. Phát hiện tàu 505 đang lên bãi, 2 tàu của Trung Quốc quay sang tiến công tàu HQ-505. Khi tàu HQ-505 trườn lên được hai phần ba thân tàu lên đá thì bốc cháy.

8h15', thủy thủ tàu 505 vừa triển khai lực lượng dập lửa cứu tàu, bảo vệ đá và đưa xuồng đến cứu thủy thủ tàu 604 bị chìm ở phía bãi Gạc Ma ngay gần đó (Cô Lin cách Gạc Ma khoảng 3,5 hải lí).

Nhờ việc ủi bãi nên tàu HQ-505 không bị chìm, chiến sĩ của tàu HQ-505 đã hoàn thành nhiệm vụ giữ chủ quyền ở đảo Cô Lin. Sau trận đánh, thuyền trưởng Vũ Huy Lễ vì thành tích trong chiến đấu ở đảo Cô Lin đã được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vào tháng 01/1989.

Về tàu HQ-505, Hải quân Việt Nam đã cố gắng cứu tàu đưa tàu HQ-505 về quân cảng Cam Ranh để sửa chữa, nhưng không thành. Tàu được thả cho chìm ở ngay gần đá Cô Lin.

ĐÁ LEN ĐAO

Ở hướng đá Len Đao, 8 giờ 20 phút ngày 14/3, Hải quân Trung Quốc bắn mãnh liệt vào tàu HQ-605 của Hải quân Việt Nam. Tàu 605 bị bốc cháy và chìm lúc 6 giờ ngày 15/3, thủy thủ đoàn của tàu bơi về đảo Sinh Tồn.

Thượng úy Nguyễn Văn Chương và trung úy Nguyễn Sĩ Minh tổ chức đưa thương binh và chiến sĩ về tàu 505 (sau khi bị bắn cháy nằm trên đá Cô Lin). Thi hài các chiến sĩ Trần Văn Phương, Nguyễn Văn Tư, cùng các thương binh nặng được đặt trên xuồng. Số người còn sức một tay bám thành xuồng một tay làm mái chèo đưa xuồng về đến đá Cô Lin.

Tại Len Đao, sau trận chiến Gạc Ma, Việt Nam gây sức ép khiến Trung Quốc lui quân, đảo Len Đao vẫn thuộc kiểm soát của Việt Nam đến ngày nay.