KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, THỜI ĐẠI CỦA CHIẾN THẮNG 30 THÁNG 4

Năm nay, trong những ngày hướng đến kỷ niệm Chiến thắng lịch sử vĩ đại 30/4/1975, nhân dân ta đón mừng sự kiện này với nhiều niềm vui mới. Theo báo cáo của Chính phủ, kinh tế Việt Nam năm 2018 khởi sắc trên cả ba khu vực sản xuất, cung - cầu của nền kinh tế cùng song hành phát triển.

NHẬN DIỆN VÀ NGĂN NGỪA THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG LÒNG YÊU NƯỚC ĐỂ KÍCH ĐỘNG NGƯỜI DÂN XUỐNG ĐƯỜNG BIỂU TÌNH, GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Người yêu nước chân chính là người biết sử dụng pháp luật, đạo đức, truyền thống tốt đẹp để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, đồng thời phải biết tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Nhận diện được phương thức, thủ đoạn lợi dụng lòng yêu nước để kích động nhân dân làm việc xấu chính là nhằm đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp, đồng thời tránh được sự lợi dụng đó để gây ra rối loạn xã hội, phức tạp tình hình.

Thông cáo báo chí kỳ họp 32 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Từ ngày 03 đến 06/12/2018 tại Hà Nội, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã họp kỳ 32. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương chủ trì kỳ họp.

UBKTTW kết luận vụ AVG: Sai phạm của ông Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn là rất nghiêm trọng

UBKTTW vừa họp kỳ 26 kết luận vụ AVG có những vi phạm của Ban cán sự đảng Bộ TT-TT, ông Nguyễn Bắc Son, ông Trương Minh Tuấn, ông Phạm Đình Trọng, của Ban Thường vụ Đảng ủy Mobifone và các ông Lê Nam Trà, Cao Duy Hải là rất nghiêm trọng.

Bốn kỳ vọng thay đổi lớn về công tác cán bộ sau 4 ngày Hội nghị T.Ư 7

Sau 4 ngày làm việc, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng được dư luận đặc biệt quan tâm, trong đó có công tác cán bộ, bởi đây là vấn đề “nóng” trong tình hình hiện nay.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Trung Quốc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trung Quốc. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 21 tháng 8, 2019

ĐỂ MỊ NÓI CHO MÀ NGHE VỀ BÁC TRỌNG

Một bài viết trên mạng xã hội với tựa đề “Ông Trọng - Ông là ai” mà nhận được đến hàng nghìn lượt “like”, hàng trăm lượt bình luận và chia sẻ. Chẳng thể hiểu nổi những con người ấy đang ở đâu, đang làm gì mà có thể tin theo những lời lẽ xuyên tạc, vu khống trắng trợn về Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng như thế.

ĐỂ MỊ NÓI CHO MÀ NGHE VỀ BÁC TRỌNG
Thông tin xuyên tạc về Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng
Cũng vẫn là vấn đề về việc Trung Quốc có những hành vi gây hấn trên biển Đông; vẫn là việc một số thành phần kích động biểu tình, gây rối… Thế nhưng, lời lẽ của bài viết được nhắc đến thì bẻ cong sự thật hoàn toàn. Họ xuyên tạc rằng từ khi bác Trọng nắm giữ chức vụ Tổng Bí thư đến nay trở thành Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, thì chưa một lần lên tiếng phản đối Trung Quốc có hành vi xâm phạm chủ quyền Việt Nam. Vụ cắt cáp tàu Bình Minh, vụ giàn khoan HD981, vụ Formosa, vụ Bãi Tư Chính… bác Trọng đều im lặng nhưng lại “bắt bớ” người “biểu tình chống Trung Quốc”. Họ còn cho rằng Bác Trọng “hối thúc” thông qua “Luật Đặc khu” là để “bán nước cho Trung Quốc”; “sao chép” Luật An ninh mạng từ Trung Quốc để ngăn chặn “làn sóng dân chủ”…
Bài viết nói trên hiện đang được chia sẻ liên tục trên một số diễn đàn chống đối, phản động và nhận được lượng tương tác khá cao. Đúng là môi trường mạng còn chưa được quản lý chặt chẽ và dân trí của nhiều kẻ thì thật sự “hạ đẳng”!
Cái thâm hiểm của người viết bài xuyên tạc nói trên là hướng người đọc tập trung vào việc Tổng Bí thư, Chủ tịch nước không có những phát ngôn chính thức sau những sự kiện xảy ra tại Biển Đông. Từ cơ sở này, họ bắt đầu “thêm mắm, bỏ muối” để người đọc hiểu sai vấn đề. Nhưng, nếu tỉnh táo và chịu tư duy hợp lý, chúng ta sẽ thấy được mọi lý lẽ đưa ra đều chỉ là sự giả dối, ngu dốt.
Đi trọng tâm vào vấn đề, tại sao bác Trọng không lên tiếng trước các sự kiện xảy ra trên Biển Đông? Thực tế là không riêng gì bác Trọng mà tất cả các lãnh đạo khác của Đảng, Nhà nước đều không có phát ngôn báo chí nào. Bởi lẽ, mọi phát ngôn chính thức của Việt Nam đều thông qua Bộ Ngoại giao. Đây sẽ là những phát ngôn chính xác nhất, được tính toán chi tiết và cẩn thận để làm cơ sở truyền thông điệp cho cả quốc tế. Cần hiểu, Bộ Ngoại giao là đại diện cho tiếng nói của Nhà nước trong các quan hệ quốc tế chứ không phải bất cứ một phát ngôn báo chí hay lời nói chuyện phiếm trên mạng xã xã hội.
Cùng đó, hãy tự hỏi xem để đi đến được phát ngôn của Bộ Ngoại giao thì ai là người chỉ đạo, ai là người phê duyệt ý kiến? Tất nhiên sẽ lại là những người đứng đầu Đảng, Nhà nước mà không phải ai khác rồi. Tức là, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước hay Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội đã phát biểu trong các cuộc họp của Đảng, Nhà nước rồi. Không hề có sự im lặng nào ở đây. Mọi thứ được thực hiện theo quy trình, theo các căn cứ pháp lý mà thế giới công nhận. Đâu phải trò trẻ con như mấy anh chị “chém gió” trên mạng xã hội thế kia.
Tiếp nữa, bác Trọng có “bắt bớ, bỏ tù” người “biểu tình chống Trung Quốc” hay không? Hoàn toàn KHÔNG! Nhìn xem, vụ việc giàn khoan HD981, vụ Formosa, vụ “Luật đặc khu”, đoàn người xuống đường tụ tập, gây rối mất trật tự rất rất nhiều. Nếu bỏ tù hết thì hỏi rằng có đủ nhà tù hay không?
Vấn đề là các cơ quan công quyền đã phân định được rõ hai thái cực: kẻ kích động gây rối và người dân lương thiện bị lừa gạt. Rõ ràng, chỉ có những kẻ gây rối, kích động đập phá cơ sở vật chất Nhà nước, chặn đường quốc lộ, gây thiệt hại cho nền kinh tế mới phải chịu hình phạt. Những người dân yêu nước khác, chỉ bị lợi dụng, không biết cách thể hiện đúng lòng yêu nước đều được giải thích, vận động cho hiểu vấn đề. Nhìn xem, lực lượng đảm bảo an ninh chỉ tự vệ trước những đợt tấn công chứ không đàn áp, đánh đập người biểu tình…
Vậy, bác Trọng hay bất cứ một cơ quan, tổ chức chính quyền nào cũng đều không bắt bớ, bỏ tù “người biểu tình chống Trung Quốc”. Đối tượng bị bắt, bị xử phạt đều là những kẻ vi phạm pháp luật.
Ngoài ra, các vấn đề về Luật An ninh mạng, “Luật Đặc khu”… báo chí, truyền thông đã nói quá nhiều; các cấp chính quyền cũng đã giải thích rất cụ thể, hợp lý. Có lẽ sẽ chẳng cần phải giải thích lại nữa. Hãy tự tìm đọc để biết, để hiểu cho chính các bạn.

Để Mị nói cho mà nghe

Sau tất cả, có còn ai hiểu sai, hiểu chưa đúng về Tổng Bí thư, Chủ tịch nước hay không? Ai còn muốn hỏi “Ông Trọng - Ông là ai?” thì để Mị trả lời. 
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là người lãnh đạo quả quyết nhất, mạnh mẽ nhất trong công cuộc chống tham nhũng thời gian qua. Đừng xuyên tạc rằng đó là “xâu xé, đấu đá” nội bộ, làm gì có nội bộ nào với những kẻ quan tham? Công cuộc chống tham nhũng được toàn thể người dân ủng hộ, đồng lòng.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước cũng là người lãnh đạo Đảng, đưa ra chủ trương về phát triển kinh tế tư nhân từ Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá XII). Từ đó, kinh tế Việt Nam bắt đầu có những bước ngoặt lớn. Và ngày hôm nay, chúng ta có những doanh nghiệp Việt đang vươn lên mạnh mẽ, sản xuất ô tô, điện thoại thông minh… Chẳng còn thua thiệt với thế giới!
Thực tế hôm nay là những thành quả đất nước đạt được, là niềm vui của nhân dân. Chắc chỉ có nhân dân Việt Nam, những người yêu nước mới hiểu. Kẻ phản động chống đối vốn ngu dốt hiểu làm sao?

Thứ Hai, 22 tháng 7, 2019

LỰA CHỌN GIẢI PHÁP HÒA BÌNH TRƯỚC HÀNH VI XÂM PHẠM CHỦ QUYỀN CỦA TRUNG QUỐC?

       Thời gian qua, dư luận khu vực và quốc tế đang chú ý theo dõi phản ứng của Việt Nam, Trung Quốc và Mỹ liên quan vụ đối đầu tại Bãi Tư Chính giữa các tàu Trung Quốc và Việt Nam ở Biển Đông, khi tàu khảo sát địa chất của Trung Quốc vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam gần quần đảo Trường Sa. Tàu Hải Dương 8 cùng với các tàu bảo vệ và tàu hải cảnh Trung Quốc Haijing 35111 đã có các hoạt động trong khu vực Tư Chính - Vũng Mây, gần với lô 06-01 của Việt Nam. Dù đây không phải là vùng biển tranh chấp mà là vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam.


       Cho đến nay, chưa có khẳng định chính thức nào về động cơ của Trung Quốc lần này. Đây có thể đơn thuần là động thái thể hiện cái gọi là “chủ quyền” sau khi đã quân sự hóa các đảo nhân tạo bất chấp luật pháp quốc tế, Trung Quốc luôn tìm mọi cách hạn chế hoặc ngăn chặn Việt Nam thăm dò, khai thác năng lượng trong vùng biển mà Trung Quốc coi là “khu vực tranh chấp”. Hay có thể đây là hành động thăm dò phản ứng, gây sức ép với Việt Nam, trong bối cảnh Việt Nam đang có uy tín, vị thế nhất định trên trường quốc tế nhờ tuân thủ đường lối đối ngoại đa phương, độc lập, tự chủ. Quan hệ Việt - Mỹ và các nước phương Tây tiếp tục có những bước phát triển có lợi cho hai bên. Hoặc đánh lạc hướng dư luận trong nước, “chuyển lửa ra ngoài” như lâu nay vẫn làm, trong bối cảnh kinh tế trong nước đang chịu đựng cú sốc lớn từ chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, biểu tình ở Hồng Kông, quan hệ Mỹ - Triều có nhiều tiến triển đe dọa đến vai trò Trung Quốc trên báo đảo Triều Tiên, quan hệ Đài Loan bất ổn… 
       
       Ngày 19/7, Bộ Ngoại giao Việt Nam ra thông cáo chính thức thứ hai liên quan tới vụ việc này trong tuần qua, trong đó kêu gọi sự ủng hộ của các nước khác. Đáng chú ý, khác với sự kiện HD-981 lần trước, lần này Mỹ lên tiếng chỉ trích Trung Quốc một ngày sau khi Bộ Ngoại giao Việt Nam ra thông cáo chính thức thứ hai liên quan tới vụ việc này trong tuần qua. Còn Trung Quốc, trước đó vào ngày 12/7 vẫn tuyên bố rằng "Trung Quốc kiên quyết bảo vệ chủ quyền và quyền hàng hải trên Biển Đông”. Tuy nhiên, sau khi bị Việt Nam nêu đích danh hôm 19/7, đến nay chưa thấy có phản ứng gì từ phía Trung Quốc. 

       Các sự việc diễn ra gần đây tuy phức tạp nhưng vẫn chưa đến mức tranh chấp căng thẳng cực độ. Bất chấp các hoạt động khiêu khích của Trung Quốc, Việt Nam hiện vẫn đang hết sức bình tĩnh và kiên trì không sử dụng vũ lực. Theo nhận định của nhiều chuyên gia đăng tải trên báo chí quốc tế (kể cả BBC và VOA), đây là một hành động hết sức khôn ngoan và sáng suốt của Việt Nam. Bởi, để đối phó với Trung Quốc, quốc gia luôn biết cách tính toán để viện ra cớ “đóng vai nạn nhân”, thì các hành vi trái với pháp luật như sử dụng vũ lực, sẽ làm tiền đề để Trung Quốc lấn tới. Việt Nam đã lựa chọn biện pháp hòa bình để giải quyết. Từ phát ngôn trực tiếp của lãnh đạo trong các cuộc gặp ngoại giao, trao đổi công hàm, nêu vấn đề trong các hội nghị quốc tế, vận dụng cơ chế làm việc của các tổ chức quốc tế mà Việt Nam là thành viên để kêu gọi sự ủng hộ của bạn bè quốc tế…Ngoài ra, Việt Nam có thể cân nhắc sử dụng cơ chế hòa giải bắt buộc đối với các vấn đề liên quan đến nghiên cứu khoa học theo phụ lục V Công ước về Luật Biển 1982, hay việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc ở phụ lục VII của Công ước về các vấn đề pháp lý liên quan khác trong hai sự kiện trên. 

       Việc Việt Nam thể hiện thái độ thận trọng là đương nhiên, bởi nếu nghiên cứu qua thông tin báo chí, đánh giá của các chuyên gia và diễn biến hiện trường có thể thấy ngay cả Trung Quốc cũng dường như tránh đề cập trực tiếp đến tranh chấp lần này. Việc tuyên bố mạnh mẽ có thể khiến các kênh đối thoại đang diễn ra khó khăn hơn, và có thể dẫn đến việc lợi dụng sự kiện này để lôi kéo người dân tụ tập tuần hành, biểu tình dưới danh nghĩa “yêu nước”, chống Trung Quốc, nhưng thực chất là tiến hành bạo loạn, tấn công lực lượng chức năng; đập phá tài sản người dân, nhà nước, doanh nghiệp; xâm phạm trụ sở cơ quan công quyền; khiến tình hình an ninh trật tự rơi vào trạng thái mất kiểm soát và hậu quả kinh tế vô cùng nặng nề. Điều này thể hiện rất rõ bản chất khủng bố của các tổ chức, cá nhân tham gia kích động. 

       Cần nhớ rằng với hàng loạt thành công ngoại giao từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, vị thế của Việt Nam nay đã khác, không dễ bị lấn áp và cô lập. Trong khi đó, Trung Quốc với những hành động bất chấp luật pháp quốc tế, quên mất di ngôn “ẩn mình chờ thời”, giờ có nguy cơ rơi vào cảnh “tứ bề thọ địch”. Huống chi Việt Nam suốt hàng nghìn năm qua và hàng chục năm gần đây đã quá quen với những động thái gây hấn của Trung Quốc. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn từng nói “lấy đoản binh để thắng trường trận”, lấy những dẫn chứng về quá trình chống giặc ngoại xâm của dân tộc để nhận định: "Họ cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được”. 

       Lời của Hưng Đạo Vương cũng là lời nhắc hãy giữ bình tĩnh, sáng suốt trong thể hiện lòng yêu nước. "Bờ yên biển mới lặng", giữ hòa bình là để làm ra tiền của, để chăm lo tốt nhất cho con em chúng ta, để không phụ xương máu bao anh hùng liệt sĩ đã đánh đổi. Chúng ta không sợ Trung Quốc nhưng phải đủ khôn ngoan để đối phó với họ như cha ông từng dạy. Đừng lấy đá tự đập chân mình!
    Lam Vân

Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2019

PHÁN QUYẾT VỀ BIỂN ĐÔNG, SAU 3 NĂM NHÌN LẠI

Ngày 12/7 vừa qua đánh dấu 3 năm kể từ khi Tòa Trọng tài Thường trực (Permanent Court of Arbitration - PCA) ở The Hague (Hà Lan) ra phán quyết bác bỏ cái gọi là “chủ quyền lịch sử” của Trung Quốc đối với vùng biển trong đường 9 đoạn trên Biển Đông và khẳng định đó là “không có cơ sở pháp lý”.

PHÁN QUYẾT VỀ BIỂN ĐÔNG, SAU 3 NĂM NHÌN LẠI
Tòa Trọng tài Thường trực công bố phán quyết về Biển Đông, năm 2016.
Cùng nhìn lại các diễn biến thời gian qua để thấy rõ hiện trạng và thực chất vấn đề khi có quốc gia thì đang sa lầy trong các toan tính hậu phán quyết và Trung Quốc vẫn tiếp tục chính sách áp đặt chủ quyền một cách thô bạo và trái với luật pháp quốc tế.
Ngày 22/01/2013, Philippines đã khởi đầu quy trình trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) tại PCA. Bất chấp sự phản đối và vận động tẩy chay của Trung Quốc, ngày 12/7/2016, PCA ra phán quyết xác định rằng yêu sách chủ quyền về “đường 9 đoạn” của Bắc Kinh là vô lý và vi phạm UNCLOS.
Phán quyết của tòa PCA kết luận: “Không có bằng chứng nào cho thấy Trung Quốc trong lịch sử đã từng “độc quyền kiểm soát” các vùng biển và các nguồn tài nguyên tại đây”.

Philippines: Rối rắm các tính toán

Tuy nhiên, đến tháng 10/2016, sau khi thắng cử, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte bất ngờ có chuyến thăm Trung Quốc cấp nhà nước. Trước khi khởi hành, ông Duterte có cuộc trả lời phỏng vấn Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV), trong đó đề cập đến các vấn đề nhạy cảm trong quan hệ hai nước. Tổng thống Duterte cho biết ông hy vọng loại bỏ hoàn toàn “vùng xám” trong quan hệ song phương, mà một phần quan trọng là vấn đề Biển Đông.
Cùng với tuyên bố này, nhà lãnh đạo Philippines đã thực hiện chính sách “gác lại” phán quyết PCA để cải thiện quan hệ với Bắc Kinh, đổi lấy các lợi ích kinh tế. Sau chuyến đi, ông Duterte về nước với những cam kết của Bắc Kinh sẽ cho vay cũng như đầu tư khoảng 24 tỷ USD, kể cả cho các dự án quy mô đầy tham vọng của ông Duterte để canh tân cơ sở hạ tầng Philippines.
Tuy nhiên, số liệu Chính phủ Philippines đã công bố, chỉ có 3 dự án, 2 chiếc cầu và 1 cơ sở thủy lợi, trị giá chung là 167 triệu USD, là đã bắt đầu được xúc tiến. Phần còn lại, gồm 3 dự án đường sắt, 3 đường cao tốc và 9 cây cầu, vẫn nằm trong giai đoạn quy hoạch và phân bố ngân sách, hoặc đang chờ Bắc Kinh phê duyệt tài chính, hoặc đang trong giai đoạn chọn nhà thầu Trung Quốc.
Theo số liệu của Cục Thống kê Philippines, trong nửa đầu năm 2018, cam kết đầu tư vào Philippines của Trung Quốc chỉ đạt 33 triệu USD, bằng 40% của Mỹ và 1/7 các cam kết của Nhật Bản, theo xu hướng tương tự như năm trước đó. Giao thương giữa Trung Quốc và Philippines đã tăng đáng kể nhưng dữ liệu cho thấy phần lớn chỉ có lợi cho Trung Quốc.
Có thể nói, cho tới giờ chỉ một phần nhỏ các cam kết của Trung Quốc cho Philippines trở thành hiện thực. Bản thân ông Duterte bị dư luận trong nước chỉ trích. Giới quan sát cho rằng nếu ông không chứng minh được là chính sách ngoại giao nhân nhượng của ông đã mang về lợi ích kinh tế cho Philippines thì vị thế của ông sẽ bị suy yếu trước các cuộc bầu cử giữa kỳ năm 2019, mà kết quả có thể định đoạt sự thành công hay thất bại nhiệm kỳ tổng thống của ông.

Sự áp đặt chủ quyền vẫn tiếp diễn

Tròn 3 năm kể từ ngày PCA ra phán quyết, theo đánh giá của Sáng kiến Minh bạch hàng hải châu Á (AMTI) thuộc Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế (CSIS) công bố ngày 12/7, nhìn chung, Trung Quốc đã không chịu tuân thủ gần như toàn bộ nội dung của phán quyết.
Cụ thể, các quan chức Trung Quốc dù đã ít đề cập hơn về cái gọi là “đường 9 đoạn” như là cơ sở cho yêu sách của họ đối với Biển Đông nhưng họ tiếp tục tuyên bố có chủ quyền lịch sử (vốn không rõ ràng) đối với hầu hết các vùng biển và đáy biển ở Biển Đông. Chính vì dựa trên cơ sở này mà ngư dân Trung Quốc tiếp tục hoạt động phi pháp trong các vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Philippines và Indonesia. Trung Quốc tiếp tục xây dựng các đảo nhân tạo và lắp đặt các trang thiết bị tại Đá Vành Khăn.
Trắng trợn hơn, Trung Quốc tiếp tục tuyên bố lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương từ tháng 5 đến tháng 8 hằng năm, bao gồm phần lớn trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines và Việt Nam.
Ngay trước dịp kỷ niệm 3 năm ngày PCA ra phán quyết, Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 11/7 đã có tuyên bố lên án Trung Quốc phản bội lời hứa không quân sự hóa Biển Đông đã đưa ra năm 2015. Mỹ đồng thời tái khẳng định việc Washington cực lực phản đối các nỗ lực của Bắc Kinh nhằm áp đặt các yêu sách chủ quyền “bất hợp pháp” ở Biển Đông.
Trung Quốc ngay từ đầu đã từ chối tham gia vào tiến trình vụ kiện, chủ yếu với lý do PCA không có thẩm quyền. Sâu xa hơn, Trung Quốc dường như cảm thấy không tự tin với cơ sở pháp lý trong các yêu sách trên Biển Đông của mình và lo sợ bị thua kiện, bị ràng buộc bởi các phán quyết khiến quyền tự do hành động bị hạn chế. Điều này là dễ hiểu khi Trung Quốc đang muốn củng cố sức mạnh hàng hải và vị thế chiến lược của mình trên Biển Đông nhằm giành ưu thế trong cạnh tranh chiến lược vốn đang ngày càng gay gắt với Mỹ.
Việc Trung Quốc từ chối tham gia vụ kiện đã bị công luận nhiều nước trên thế giới chỉ trích bởi nó thể hiện sự thiếu thiện chí và coi thường luật pháp quốc tế, nhất là khi Trung Quốc vẫn luôn khẳng định mong muốn trở thành một cường quốc có trách nhiệm. Tiếp đó, Trung Quốc phủ nhận tính pháp lý trong phán quyết của PCA và tiếp tục tiến hành các hành động mang tính khiêu khích trên Biển Đông, cũng như tiếp tục hoàn thiện và quân sự hóa các đảo nhân tạo tại Trường Sa.
Tựu trung lại, hành động phủ nhận phán quyết PCA và tiếp tục sự áp đặt chủ quyền một cách thô bạo ở Biển Đông của Trung Quốc được giới quan sát đánh giá là “lợi bất cập hại” khi không chỉ ảnh hưởng tới uy tín quốc tế của Trung Quốc mà còn có thể làm hại các lợi ích hàng hải của nước này không chỉ ở Biển Đông mà còn ở cả các vùng biển khác.
Trong bối cảnh đó, các nước có lợi ích trong khu vực cần thiết phải đề cao tầm quan trọng trong việc thực thi phán quyết của PCA, nỗ lực đạt được một Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) ràng buộc pháp lý giữa Trung Quốc và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Ngoài ra, cần phải có các biện pháp giảm thiểu căng thẳng trong vùng biển này và khẳng định vai trò của luật pháp quốc tế và xây dựng một trật tự khu vực dựa trên các quy tắc.
Nam Sơn

Thứ Tư, 19 tháng 6, 2019

HOÀNG SA - TRƯỜNG SA - BIỂN ĐÔNG, KHẢ NĂNG GIỮ VỮNG VÀ KHẢ NĂNG THU HỒI.

Tất cả các nước phát triển trên thế giới đều là các quốc gia Biển. Đảng ta đã xác định chủ trương phát triển kinh tế Biển: “Việt Nam phải trở thành một quốc gia Biển, phải mạnh lên từ Biển, vươn ra Biển, làm giàu từ Biển”. Biển Đông có giá trị vô cùng to lớn, là cửa ngõ, là con đường để chúng ta vươn lên sánh ngang với các cường quốc Năm Châu như mong ước của Bác. Chúng ta phải làm gì? Chúng ta phải giữ vững chủ quyền, chuẩn bị các điều kiện cần và đủ để từng bước giành lại chủ quyền hợp pháp của mình với những đảo đã bị chiếm giữ trái phép.

HOÀNG SA - TRƯỜNG SA - BIỂN ĐÔNG, KHẢ NĂNG GIỮ VỮNG VÀ KHẢ NĂNG THU HỒI.

Vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông đã có nhiều người đặt ra những câu hỏi thắc mắc, có người không nhận được câu trả lời thỏa đáng, đã vậy họ lại bị các thế lực thù địch xuyên tạc dắt mũi để kích động chống phá gây khó khăn thêm cho công cuộc giữ nước, thậm chí vô tình tiếp tay cho kẻ thù có thời cơ chiếm thêm lãnh thổ nước mình.

Ở PHẠM VI BÀI VIẾT NÀY, TÔI XIN TRAO ĐỔI VỚI CÁC BẠN ĐỂ TA CÙNG TRẢ LỜI CHO 3 CÂU HỎI:
1. QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ MỘT SỐ ĐẢO THUỘC QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA ĐÃ BỊ XÂM CHIẾM NHƯ THẾ NÀO?
2. KHẢ NĂNG GIỮ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA TA HIỆN NAY?
3. KHẢ NĂNG THU HỒI CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO ĐÃ BỊ CHIẾM?

Trả lời cho câu hỏi thứ nhất:
QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ MỘT SỐ ĐẢO THUỘC QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA BỊ XÂM CHIẾM NHƯ THẾ NÀO?
Lịch sử cho thấy kể từ lần thứ nhất năm 1946, trong tình thế đất nước ta ngàn cân treo sợi tóc trước sự trở lại của người Pháp và đó cũng là lúc Liên Hiệp Quốc yêu cầu người Trung Quốc (đó là 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch) đến giải giáp quân Nhật. Lúc đó, khoảng trống có lợi cho Trung Quốc, họ ra đòn. Họ cũng tranh thủ chiếm luôn đảo Phú Lâm (thuộc quần đảo Hoàng Sa) và đảo Ba Bình (thuộc quần đảo Trường Sa). Năm 1949, Trung Quốc giải phóng thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, họ đã tiếp tục lộ rõ ý đồ chiếm các đảo của Việt Nam.
Lần thứ hai vào năm 1956, sau hiệp định Geneva, người Pháp phải rút đi, để lại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho chính quyền tay sai Mỹ tiếp quản, quân đội Ngụy lúc này chưa mạnh, chưa có tàu nên Trung Quốc chiếm gần như toàn bộ phần phía đông của quần đảo Hoàng Sa. Lần thứ ba là năm 1959 họ ra đòn nhưng không thành công. Trung Quốc mang quân qua chiếm nốt phần phía Tây của quần đảo Hoàng Sa nhưng Ngụy quân VNCH đã có mặt ở đó.
Lần thứ tư là năm 1974, Trung Quốc mang quân tấn công phần phía tây quần đảo Hoàng Sa đang do quân đội Ngụy VNCH quản lý. Theo tài liệu của Bộ Ngoại giao Việt Nam, trong chuyến thăm của Tổng thống Nixon tới Trung Quốc năm 1972, Trung Quốc đã thoả thuận với chính quyền Nixon một cuộc mua bán bẩn thỉu trên lưng nhân dân Việt Nam, thể hiện trong Thông cáo Thượng Hải. Theo đó, Trung Quốc mưu toan dùng “con bài Việt Nam” để ngoi lên địa vị một cường quốc lớn, bình thường hoá quan hệ Trung - Mỹ và giải quyết vấn đề Đài Loan. Còn chính quyền Nixon có thể cứu vãn và khôi phục địa vị trên thế giới đã bị suy yếu nghiêm trọng do hậu quả của cuộc chiến tranh Việt Nam và bắt đầu thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”. Do vậy, chính quyền Nixon đã không có bất cứ động thái nào đáp ứng lời cầu cứu của chính quyền VHCN khi quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc xâm lược. Đã vậy, Mỹ còn trực tiếp can thiệp không cho Thiệu dùng không quân tại Đà Nẵng ra đánh chiếm lại Hoàng Sa. Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn đe dọa cắt viện trợ, buộc Thiệu phải thu hồi lệnh.
Ngày 14/3/1988, quân đội chúng ta vẫn đang làm nhiệm vụ thời chiến ở biên giới Tây Nam và phía Bắc. Thời điểm đó, chúng ta cũng bị cấm vận bốn bề, bị bao vây cô lập không khác gì Triều Tiên hiện nay khi chỉ có 13 nước ủng hộ ta, còn lại đều lên án ta xâm lược Campuchia do nghe theo Mỹ và Trung Quốc tuyên truyền. Thời cơ đó Trung Quốc đã đưa quân vào chiếm đảo Gạc Ma ở quần đảo Trường Sa.

Trả lời cho câu hỏi thứ hai:
KHẢ NĂNG GIỮ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO CỦA TA HIỆN NAY?

Âm mưu của Trung Quốc và quyết tâm của ta?
Đảng ta đã nhận định: “Độc chiếm Biển Đông là âm mưu xuyên suốt các đời lãnh đạo Trung Quốc”. Từ năm 1946 đến nay Trung Quốc đã 5 lần đánh chiếm đảo của ta trên Biển Đông.
Ngày nay, Trung Quốc còn âm mưu đó không hẳn ai cũng rõ. Tham vọng đường lưỡi bò và quân sự hóa Biển Đông là một minh chứng nhưng ít ai biết rằng Lãnh đạo Trung Quốc đã hỏi Tướng lĩnh Quân giải phóng Trung Quốc: “Nếu đánh chiếm toàn bộ Trường Sa thì có chiếm được không, bao lâu thì chiếm được?”
Hiện nay, Trung Quốc đang âm mưu TẠO THẾ, TẠO LỰC và CHỜ THỜI để độc chiếm Biển Đông.
VỀ TẠO THẾ, Trung Quốc đang xây dựng thế trận liên hoàn từ Không quân, Hải quân, thế bố trí chiến lược các lực lượng và điểm tựa trên Biển Đông, kể cả sử dụng Campuchia như một con bài gây sức ép vào sau lưng Việt Nam cũng nằm trong thế trận chúng dựng lên.
VỀ TẠO LỰC, Trung Quốc đã cải tổ Quân đội, giảm vai trò của Lục quân, tập trung tăng cường phát triển Hải quân. Quân sự hóa các đảo đã chiếm giữ, xây dựng sân bay, cảng trú cho tàu thuyền, đưa tên lửa và ra đa lên các đảo ở Biển Đông, đóng mới hàng loạt chiến hạm, tàu sân bay...
VỀ CHỜ THỜI, theo các bạn, khi nào là thời cơ để họ đánh chiếm đảo của ta? Nhìn lại những lần Trung Quốc đánh chiếm đảo của ta thì chúng ta thấy, họ đều tận dụng thời cơ đất nước chúng ta loạn lạc, suy yếu, bị bao vây cô lập để đánh chúng ta. Tương lai cũng sẽ như thế, họ đợi chúng ta mất ổn định chính trị xã hội, đất nước rối loạn kích động thế giới can thiệp cô lập. Đó là thời cơ để ra tay. Họ có đủ thế, đủ lực nhưng thời cơ chưa đến thì họ không bao giờ ra tay. Vì vậy, phải giữ vững hòa bình, ổn định cho đất nước, không để xảy ra bạo loạn diện rộng để kẻ thù có thời cơ thôn tính biển đảo của ta. Đó là lý do, nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tiếp xúc cử tri Thành phố Hồ Chí Minh đã nói: “Đồng bào hãy yêu nước bằng cái đầu lạnh và trái tim nóng”, có như thế thì ta mới đủ tỉnh táo, sáng suốt để đấu trí với kẻ thù. Các cụ đã dạy: “Cả giận, mất khôn”, khi cái đầu nóng thì hành xử sao khôn ngoan được, chỉ tạo cớ cho kẻ thù mà thôi.
Về quyết tâm của ta: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khi tiếp xúc cử tri đã nói: “Mất đảo là mất nước”. Vậy mất nước thì chúng ta sẽ làm gì? Các bạn đã có câu trả lời cho mình rồi.
Âm mưu của địch là vậy, quyết tâm của ta là thế. Vậy khả năng của ta đến đâu?
Xét ở mặt đối tượng. Ở thế đối đầu 2 quốc gia bất kỳ thì người ta xét trên 4 mặt sức mạnh răn đe: Một là, răn đe về kinh tế, hai là răn đe về ngoại giao, ba là răn đe về chính trị, bốn là răn đe về quân sự.
Về kinh tế, quy mô nền kinh tế Trung Quốc gấp 86 lần Việt Nam, với ta là con Trâu thì với họ chỉ là bó rau muống. Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam hoàn toàn không lệ thuộc kinh tế Trung Quốc, đòn kinh tế không răn đe được Việt Nam.
Về ngoại giao, Việt Nam ở thế chính nghĩa, được cả thế giới ủng hộ, trừ một vài nước bị khống chế về lợi ích với Trung Quốc mà có tiếng nói bất lợi cho Việt Nam. Ví dụ trong vụ giàn khoan Hải Dương 981, cả thế giới đứng về phía Việt Nam, đó là kết quả của cuộc đấu tranh ngoại giao và tuyên truyền quyết liệt. Về ngoại giao, trong vụ này Trung Quốc đã thua ta.
Về chính trị, chính trị Trung Quốc có nét tương đồng Việt Nam, đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Tuy nhiên, Trung Quốc không răn đe được Việt Nam về chính trị. Bằng chứng là Việt Nam đã đập lại Trung Quốc năm 1979 khi Trung Quốc xâm phạm biên giới Việt Nam. Thực tế, trong lịch sử chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa duy trì được sự độc lập khi không chấp nhận cho Trung Quốc đem quân tới Việt Nam trực tiếp tham chiến hoặc can thiệp vào đường lối chiến lược của mình. Có những lúc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã từ chối nhận viện trợ của Trung Quốc nếu khoản viện trợ đó đi kèm những điều kiện được xem là vi phạm chủ quyền của Việt Nam. Trung Quốc đã từng đề nghị đưa cả chục vạn dân quân sang xây dựng đảm bảo toàn bộ tuyến đường Trường Sơn cho Việt Nam nhưng Việt Nam đã từ chối dù lúc đó ta rất cần. Ngày nay thì sao? Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng tranh cãi trực tiếp với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Hồ Cẩm Đào về chủ quyền Biển Đảo. Bước vào Hội nghị, ông Đào nói: “Tây Sa, Nam Sa là chủ quyền của Trung Quốc, nếu Trung Quốc không thu hồi thì nhân dân Trung Quốc không tin vào Đảng Cộng sản Trung Quốc”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói: “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, nếu Đảng Cộng sản Việt Nam không giữ được chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa thì nhân dân Việt Nam cũng không tin Đảng Cộng sản Việt Nam. Đài Loan là của Trung Quốc, Trung Quốc không thu hồi tại sao nhân dân Trung Quốc vẫn tin Đảng Cộng sản Trung Quốc?” Hồ Cẩm Đào cứng lưỡi không biết nói gì, nhìn lên trần nhà (theo lời kể của Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn nguyên Cục trưởng Cục Tuyên huấn).
Về quân sự, Trung Quốc được đánh giá mạnh gấp 10 lần Việt Nam. Binh pháp Tôn Tử chỉ ra: “Phép dụng binh, gấp mười lần địch thì bao vây, gấp năm lần địch thì tấn công, gấp đôi chì chia ra mà đánh, bằng địch thì phải đánh khéo, kém địch thì rút, tránh giao tranh với địch. Binh yếu mà đánh thẳng tất bị bắt làm tù binh”. Nhưng với Việt Nam thì phép dụng binh này của Tôn Tử không áp dụng được vì Việt Nam chuyên đánh với thằng mạnh gấp trăm lần mình, chứ 10 lần ăn thua gì.
 Đảng ta xác định: “Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tập trung xây dựng Hải quân, PKKQ, thông tin tác chiến điện tử tiến thẳng lên hiện đại”. Vậy chúng ta đã làm gì để xây dựng tiềm lực quân sự đủ sức răn đe:
Về vũ khí:
Với Hải quân, chúng ta đã mua 6 tầu ngầm Ki lô 636, đặt thêm những tính năng hiện đại vượt trội, đặc biệt là khả năng phóng tên lửa đối đất Club B, loại tên lửa hải đối đất này có tầm bắn tới gần 280km, sức hủy diệt vô cùng lớn, đủ để xóa sổ 1 đảo nhỏ hay đánh chìm một chiếm hạm lớn cỡ tàu sân bay chỉ bằng 1 phát bắn, làm tê liệt căn cứ tầu ngầm, tàu mặt nước của đối phương. Đó là lý do, Trung Quốc điên cuồng tìm cách ngăn chặn Việt Nam sở hữu loại tên lửa này, tiếc cho Trung Quốc là hợp đồng đã được ký và tên lửa đã được chuyển giao cho Việt Nam trước khi Trung Quốc kịp can thiệp. Bên cạnh tầu ngầm ta trang bị nhiều tầu mặt nước có khả năng tác chiến mạnh, tốc độ cao, hỏa lực mạnh với những cú đốt chết người như “Tia chớp- Molniya ” Gepard 3.9, và rất nhiều tàu tên lửa nhỏ “Ong độc”, nhỏ nhưng bay cực nhanh và đốt cực đau.
Với dải bờ biển dài, chiều sâu phòng thủ biển nằm trong tầm tên lửa bờ (tên lửa đất đối hải), đó là ưu thế lớn. Chúng ta có 1 chiến hạm không bao giờ chìm đó chính là đất liền. Bộ 3 hệ thống tên lửa phòng thủ bờ cực mạnh của Hải quân Việt Nam gồm Redut-M, 4K51 Rubezh và tổ hợp K-300P Bastion-P, bán kính tác chiến từ 300km đến 500km. Tổ hợp K-300P Bastion-P là hiện đại nhất, đầu đạn nặng gần 1 tấn, tốc độ bay lớn, độ chính xác cao, uy lực cực mạnh, đủ để xé đôi một chiến hạm cỡ lớn chỉ với 1 phát bắn. Đến nay, Mỹ vẫn chưa có biện pháp hiệu quả để khắc chế loại tên lửa này.
Với PKKQ, ta có các máy bay hiện đại Su -30 MK2 có bán kính tác chiến bao trùm Đông Nam Á, được thiết kế chuyên tác chiến Biển, là loại tiêm kích đa năng mang bom, tên lửa đối không và đặc biệt là tên lửa đối hải diệt tàu mặt nước hiện đại với uy lực lớn. Về tên lửa phòng không ta có nhiều loại, nhiều tầng, nhiều lớp, hiện đại nhất là S -300 PMU1 và tương lai sẽ trang bị hiện đại hơn.
Bên cạnh việc mua sắm vũ khí ta cũng đẩy mạnh nghiên cứu chế tạo, những năm qua ta đã cử hàng nghìn học viên đi nghiên cứu học tập về khoa học chế tạo vũ khí ở Nga và các nước phát triển đồng thời tiếp nhận bàn giao công nghệ, tự phát triển công nghệ chế tạo tên lửa các loại đủ để tự chủ vũ khí hiện đại trong tương lai, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc.
Về chiến thuật tác chiến biển:
Ta sử dụng chiến thuật tác chiến phi đối xứng, chống tiếp cận để phát huy tối đa lợi thế địa hình của ta. Ngoài ra ta có khả năng khống chế Biển Đông, khóa chặt đường Biển, đánh vào hậu cần của địch. Ta biết rằng 1/3 lượng hàng hóa của thế giới đi qua Biển Đông, 2/3 lượng hàng hóa và dầu khí Trung Quốc nhập khẩu để duy trì nền kinh tế đều đi qua Biển Đông. Nếu thiếu dầu khí và hàng hóa 3 tháng thì kinh tế Trung Quốc khủng hoảng. Máy bay, tầu chiến Việt Nam cứ nện cho chìm vài chiếc tàu hàng Trung Quốc thì bố nó cũng không dám chạy qua nữa. Đó cũng là lý do, “Tướng Trung Quốc báo cáo lãnh đạo Trung Quốc là chiếm Trường Sa 1 tuần là được nhưng không giữ được. Lãnh đạo Trung Quốc nói, chiếm không giữ được thì chiếm làm gì”. Nếu nó đánh ta gãy 1 tay mà ta cứ ôm tay khóc là nó đánh ngay, nhưng nếu nó đánh ta gãy 1 tay mà ta lại đấm nó gẫy răng thì nó sẽ phải suy nghĩ lại. Gẫy răng thì sẽ không được đẹp trai lại còn phải húp cháo cả tuần. Nó sẽ phải cân nhắc.

Trả lời cho câu hỏi thứ ba:
KHẢ NĂNG THU HỒI CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO ĐÃ BỊ CHIẾM?

Câu hỏi đặt ra là chúng ta thu hồi chủ quyền Hoàng Sa bằng vũ lực hay bằng cách nào?
Thực lực quân sự của ta không thể dùng vũ lực để thu hồi. Vậy chúng ta có thể dựa vào một nước lớn khác như Mỹ để dùng vũ lực được không? Chúng ta không thể dựa vào Mỹ, lịch sử Mỹ chỉ chuyên đi xé nhỏ các nước chứ chưa bao giờ giúp nước nào mở rộng lãnh thổ. Chúng ta cũng không quên Mỹ đã bắt tay Trung Quốc bán Hoàng Sa ngay trên lưng chúng ta. Mỹ cũng xui dại Ucraina tiêu hủy các chiến hạm hải quân, các máy bay và tên lửa chiến lược để nhận sự bảo kê của Mỹ. Kết quả, Nga thu hồi C-rưm, Mỹ giương mắt ếch lên nhìn, Mỹ chỉ to mồm xui dại trẻ con chứ Mỹ dại gì xung đột quân sự trực tiếp với Nga, chẳng có lợi ích kinh tế gì, ú ớ mà gấu Nga điên lên thì chỉ có vỡ mồm. Lượng vũ khí hạt nhân của Trung Quốc chỉ đứng sau Nga, 1 phần nhỏ phát nổ cũng đưa trái đất về kỷ băng hà. Mỹ đang sống sướng, tội gì phải chết.
Vậy thu hồi bằng cách nào?
Chỉ có 1 con đường là đấu tranh bằng pháp lý. Muốn đấu tranh thắng lợi phải biết đợi thời cơ để ra đòn quyết định. Quá trình chờ thời là quá trình ta xây dựng, chuẩn bị thế và lực chứ không phải đứng yên chờ thời. Giống như Cách mạng tháng Tám 1945, nếu nổ ra sớm, thời cơ chưa đến chúng ta sẽ thất bại. Philippines kiên Trung Quốc thắng lợi nhưng kết quả chẳng làm gì được Trung Quốc. Trung Quốc có thể vượt Mỹ nhưng thời điểm đó chắc chắn luật pháp quốc tế trong đó có Luật biển sẽ có hiệu lực mạnh hơn. Tiếng nói của các nước được tôn trọng hơn. Trong khi đó Trung Quốc cũng còn rất nhiều vấn đề phải giải quyết, Trung Quốc còn vấn đề dân tộc, vấn đề các khu tự trị, vấn đề Đài Loan... năm 1930-1931 chẳng ai biết được thời cơ Tổng khởi nghĩa sẽ đến vào năm 1945. Hiện nay chúng ta cũng không thể biết khi nào là thời cơ để chúng ta kiện Trung Quốc và ra đòn quyết định, có thể 5 năm, 10 năm hoặc lâu hơn nữa nhưng thời cơ nhất định tới, chỉ cần chúng ta đoàn kết và tự tin, giữ cho đất nước ổn định và phát triển thì thời cơ sẽ đến. Dùng cái đầu nóng, dùng bạo lực hay dựa hết vào ngoại bang giúp đỡ thì chẳng những không có cơ hội thu hồi mà có thể chúng ta còn mất cả những những đảo đang đứng chân.
NGUYỄN MẠNH TUÂN

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2019

CẢNH GIÁC THỦ ĐOẠN SỬ DỤNG CÁC TRANG MẠNG XÃ HỘI ĐỂ LỒNG GHÉP NỘI DUNG TUYÊN TRUYỀN VỀ “PHÁP LUÂN CÔNG” VÀ CHỐNG PHÁ VIỆT NAM


Thời gian qua, trên mạng xã hội xuất hiện các website, fanpage mang tên “Đại Kỷ nguyên” cùng với các trang mạng “chân rết” của chúng như “Trí thức Việt Nam”, “Chân trời mới Media”, “Hoa Sen khai nở”, “Đại Pháp hồng truyền chân thiện nhẫn”… ngoài những bài viết,  video giải trí với chủ đề về kinh tế, chính trị, khoa học, công nghệ, văn hóa, nghệ thuật… chúng lồng ghép những nội dung tuyên truyền, phát triển “Pháp Luân công”, đồng thời phân tích sai lệch về thực trạng xã hội, xuyên tạc lịch sử, nói xấu chế độ XHCN nước ta hiện nay.

CẢNH GIÁC THỦ ĐOẠN SỬ DỤNG CÁC TRANG MẠNG XÃ HỘI ĐỂ LỒNG GHÉP NỘI DUNG TUYÊN TRUYỀN VỀ “PHÁP LUÂN CÔNG” VÀ CHỐNG PHÁ VIỆT NAM

“Đại Kỷ nguyên” (tên tiếng Anh: The Epoch Times), là một tờ báo đa ngôn ngữ và là tổ chức truyền thông quốc tế, được duy trì bởi các phiên bản chính bằng tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Việt và 21 ngôn ngữ khác trên mạng internet. Tờ báo “The Epoch Times” đã được xuất bản bằng tiếng Trung kể từ tháng 5/2000, có trụ sở chính tại Thành phố New York, Hoa Kỳ, có một mạng lưới phóng viên, cộng tác viên trên toàn thế giới. Sau sự kiện Thiên An Môn ở Trung Quốc, tờ báo “Đại Kỷ nguyên” và các trang mạng nêu trên luôn cổ vũ cho “Pháp Luân công”. Xuất hiện trên mạng xã hội facebook và xâm nhập vào Việt Nam từ năm 2015 đến nay với việc đăng tải các bài viết, hình ảnh, video đa dạng, phong phú với nhiều chủ đề về kinh tế, chính trị, khoa học, công nghệ, văn hóa, nghệ thuật. Cùng với việc tuyên truyền miệng, phát tờ rơi, quảng cáo trái phép về “Pháp Luân công”, các nhóm “Pháp Luân công” ở trong và ngoài nước còn phát triển các website/fanpage như đã nêu ở trên để thuận tiện trong việc tuyên truyền, phát triển lực lượng của chúng. Do vậy, “Đại Kỷ nguyên” (DKN.TV) hiện đã trở thành một trong những trang mạng phổ biến và quen thuộc đối với cộng đồng mạng Việt Nam.
Đáng chú ý, thời gian qua, cách thức mà trang website/fanpage “Đại Kỷ nguyên” và các trang mạng “chân rết” của chúng tuyên truyền rất tinh vi, xảo quyệt, làm cho người đọc rất khó nhận diện. Ngoài việc tập trung vào tuyên truyền, đăng tải các bài viết ca ngợi về tác dụng, lợi ích của việc tập luyện “Pháp Luân công”, các trang mạng nêu trên đã đánh vào tâm lý người đọc, lồng ghép các tin tức thời sự nóng hổi trong nước và thế giới, những câu chuyện khôi hài, những hình ảnh gây tò mò, kích thích, những câu nói, châm ngôn để đời… khiến nhiều người đọc đăng ký theo dõi các trang website/fanpage này. Đây được xem là chiêu bài “mưa dầm thấm lâu” rất khôn ngoan của bọn chúng, dần dần làm cho người đọc có suy nghĩ “tích cực” hơn về website/fanpage của chúng, đồng nghĩa với nó là việc số lượng người tiếp cận “Pháp Luân công” không ngừng tăng lên, và mục tiêu cuối cùng là chúng lôi kéo, mê hoặc những người theo dõi trang website/fanpage này tìm hiểu sâu hơn “Pháp Luân công” nhằm thoả mãn sự tò mò, từng bước bị thu hút, lôi kéo trở thành “học viên” của môn phái này. 
Khi đã có số đông người theo dõi thì các trang website/fanpage của “Đại Kỷ nguyên” mới dần dần bộc lộ bản chất của chúng là để tập hợp, phát triển lực lượng nhằm hướng lái sang mục đích chính trị. Chúng lồng ghép những bài viết giới thiệu về “Pháp Luân công” với các bài viết, hình ảnh có nội dung chống chính quyền Trung Quốc, chửi chế độ cộng sản… Nguy hiểm hơn, chúng còn tuyên truyền, chống phá, nói xấu, xuyên tạc tình hình Việt Nam bằng cách dàn dựng, giật tít và đưa lên những bài viết, hình ảnh, video có nội dung không đúng sự thật; phân tích sai lệch về thực trạng xã hội, xuyên tạc lịch sử, nói xấu chế độ XHCN nước ta hiện nay nhằm làm cho người đọc hoang mang, lo lắng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các bài viết, hình ảnh, video mà chúng đưa lên hầu hết là những thông tin sai lệch, bóp méo sự thật, không có nguồn gốc rõ ràng, kèm vào đó là những dòng cảm xúc có tính định hướng phản động, kích động cộng đồng mạng thực hiện những hành động sai trái theo ý đồ của chúng.
 Có thể thấy rằng, trang mạng “Đại Kỷ nguyên” và các trang mạng “chân rết” của chúng là những trang mạng có nhiều vấn đề chúng ta cần phải xem xét kĩ lưỡng, thận trọng trước khi đọc, xem, tin và chia sẻ những gì các trang mạng này đưa lên mạng xã hội. Vì vậy, chúng ta hãy luôn cảnh giác, phải có cái nhìn khách quan, toàn diện, không nên để trang báo mạng có lịch sử phản động dẫn dắt, hướng lái vào những hoạt động tội lỗi, sai trái, vi phạm pháp luật.

Thảo Nhiên

Thứ Tư, 13 tháng 2, 2019

40 NĂM CUỘC CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ BIÊN GIỚI PHÍA BẮC (17/02/1979 - 17/02/2019)

Bài 2: Lạng Sơn những ngày khói lửa

Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc đã diễn ra khốc liệt tại 6 tỉnh biên giới vào rạng sáng 17/02/1979 trên các mặt trận. Quân Trung Quốc dùng hỏa lực, bộ binh, xe tăng nhanh chóng lấn chiếm biên giới các tỉnh.
Ác liệt nhất là mặt trận Đồng Đăng, Lạng Sơn, bởi chiếm được Đồng Đăng coi như con đường thọc sâu vào lãnh thổ nước ta của Trung Quốc trở nên thuận lợi. Những chứng tích, nhân chứng còn lại đã minh chứng sự chiến đấu anh dũng để gìn giữ từng tấc đất biên cương Tổ quốc của quân và dân ta.


40 NĂM CUỘC CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ BIÊN GIỚI PHÍA BẮC (17/02/1979 - 17/02/2019)
Ông Nguyễn Văn Bình tại hang Đền Mẫu, Đồng Đăng, Lạng Sơn, nơi mà cách đây 40 năm là nơi trú ẩn của hơn 500 người dân trước quân địch

Cầm cự để chiến đấu đến cùng

Trong sử sách thị trấn Đồng Đăng ghi rõ: Năm 1979, tình hình biên giới với Trung Quốc diễn biến ngày càng phức tạp. Ngày 15/02/1979, phía Trung Quốc huy động 2 đại đội đánh chiếm một số điểm thuộc thị trấn Đồng Đăng và xã Bảo Lâm. Sáng sớm 17/02, thị trấn Đồng Đăng bị đánh chiếm… Bảo vệ Đồng Đăng, các chiến sĩ Đồn biên phòng 193 đã phối hợp với cảnh sát cơ động, đại đội công binh, Trung đoàn 12 cùng nhân dân xã Bảo Lâm nổ súng đánh trả quyết liệt. Lực lượng phòng thủ tại Đồng Đăng chưa được chi viện kịp, nhưng vẫn bám trụ trận địa cho tới ngày 22/02.
Ngày cuối cùng tại Pháo đài Đồng Đăng, nơi có hệ thống phòng thủ kiên cố nhất, quân Trung Quốc đã phải chở bộc phá đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn vào lỗ thông hơi giết hại nhiều thương binh và dân thường. Nhưng ác liệt nhất, phải kể đến cuộc bám trụ 3 ngày đêm tại hang Đền Mẫu của quân và dân thị trấn Đồng Đăng.
Trong cơn mưa nặng hạt những ngày giáp Tết Nguyên Đán Kỷ Hợi 2019, ông Nguyễn Văn Bình (nguyên là lính trinh sát, tiểu đội trưởng, trong sự kiện ngày 17/02/1979) đang giúp vợ và các con dọn dẹp vài chiếc ghế nhựa cũ kỹ sau buổi bán hàng ăn sáng dưới chân hang Đền Mẫu. Biết chúng tôi tìm đến ông để hỏi về cuộc chiến đấu biên giới cách đây 40 năm, ông Bình như “sống lại” thời khắc oanh liệt đó.
Cách đây tròn 40 năm, nhiều người cao tuổi ở thị trấn Đồng Đăng không ai không nhớ rạng sáng 17/02, khi mọi người đang ngon giấc thì bất chợt đạn pháo từ bên kia biên giới dội ầm ầm xuống thị trấn, khói mù mịt khiến nhiều người hoảng sợ. Ông Bình nhớ lại, lúc đó ông là tiểu đội trưởng đóng quân tại thị xã Cao Bằng nhưng vì bị ốm, ông Bình được đưa về tuyến dưới điều trị. Sau khi ra viện, ông Bình trở lại đơn vị, trên đường đi từ Hà Nội qua Đồng Đăng để lên Cao Bằng thì không ngờ tới Đồng Đăng (ngày 16/02/1979) cũng là thời điểm chiến sự nổ ra. Lúc 5 giờ sáng 17-2-1979, đạn pháo Trung Quốc bắn vào thị trấn đỏ trời.
Nhà ông Bình cạnh hang Đền Mẫu, pháo bắn cạnh nhà ông, ông hô hoán gia đình và làng xóm chạy lên hang để tránh đạn, vì vội không ai mang theo thứ gì. Lên đến hang thì gặp một đại đội cảnh sát cơ động cũng đang đưa từng tốp người dân địa phương di chuyển lên để tránh đạn pháo của địch. “Lúc tới hang, thấy đại đội toàn tân binh, kinh nghiệm còn ít nên tôi nghĩ không lên Cao Bằng nữa mà ở trong hang cùng bà con. Đã chiến đấu thì ở đâu cũng chiến đấu. Sau đó, tôi xin sáp nhập vào đại đội công an này, lúc đầu các anh chưa chấp nhận, sau khi xem giấy tờ quân nhân và biết tôi là người địa phương nên được chấp nhận cùng đại đội chiến đấu và bảo vệ người dân...” - ông Bình nhớ lại.
Cho tới giờ, trong tâm trí của người lính năm xưa vẫn không quên hình ảnh gần 500 người dân với 120 chiến sĩ cảnh sát cơ động cùng trú tại hang Đền Mẫu trong 3 ngày (từ sáng 17/02 đến ngày 19/02), không chỉ có cái đói, cái khát bủa vây mà còn là súng đạn của quân địch rình rập, đe dọa. Ban ngày, ông Bình và các chiến sĩ thay nhau canh gác cửa hang để đảm bảo quân Trung Quốc không xâm phạm tới tính mạng người dân. Nói là canh gác nhưng người phải nằm, phải bò từng gang để cảnh giới quân địch. Cầm cự được đến hết ngày 17/02, sang ngày 18/02, ban đêm, ông Bình cùng vài chiến sĩ đã bò ra ngoài, men theo sườn hang xuống nhà dân để tìm thức ăn cho đồng bào. “Gần như tìm được cái gì có thể ăn là ăn, lạc (đậu phộng) sống, su hào sống, cơm nguội… miễn cầm cự càng lâu càng tốt. Trong hang không có nước uống, người cứ khô đi...” - ông Bình xúc động kể.
Sát cánh chiến đấu cùng ông Bình trong những ngày ở hang Đền Mẫu còn có Binh nhì Triệu Quang Điện, thuộc Đại đội cảnh sát cơ động. Trong hàng trăm con người ở trong hang, 2 ông là người thông thạo địa hình, xông xáo trong từng việc. Cách đây 40 năm, Binh nhì Triệu Quang Điện chưa đầy 20 tuổi nhưng vô cùng gan dạ. Chứng kiến quân địch có hỏa lực mạnh, biết mình không bắn xuể, ông Điện nhắc đồng đội phải tiết kiệm đạn để chuyển phương án tác chiến bắn tỉa. “Tới khoảng 11 giờ trưa, tôi và các chiến sĩ nghĩ rằng, phải tính viên đạn nào cho địch, viên nào bảo vệ người dân. Đồng đội tôi có người hy sinh ngay trước cửa hang, lập tức có người khác cầm súng lên thế chỗ. Cho tới ngày 18/02, toàn bộ thị trấn Đồng Đăng bị bao vây, biết tình thế nguy hiểm, anh em bảo nhau bắn tỉa sau lưng địch... Việc bảo vệ đồng bào mình là trên hết, song lúc đó đạn dược rất ít nên việc chọn phương án tác chiến nào vừa hiệu quả, vừa tiết kiệm đạn được ưu tiên hàng đầu...”, ông Điện nhớ lại.

Mở đường máu cứu đồng bào

Trong ký ức đầy sự kiện của mình, ông Bình vẫn thường kể chuyện cho các con cháu nghe về cuộc “giải cứu” hơn 500 người dân ở hang Đền Mẫu. Ông Bình tâm sự: “Trong chiến tranh, giữa sự sống và cái chết chỉ cách nhau gang tấc, nếu không đánh giá kỹ, tìm hiểu kỹ đối phương sẽ dẫn đến thương vong rất lớn. Thực tế, sau 3 ngày trong hang, không ánh sáng, không thức ăn, không nước uống, sức lực đã dần cạn kiệt và phải tính phương án đưa đồng bào thoát ra ngoài càng sớm càng tốt. Sau vài ngày tìm hiểu, ông nắm được “điểm yếu” quân Trung Quốc là ban ngày chúng hùng hổ, đi đi lại lại quanh thị trấn với xe tăng yểm trợ, nhưng ban đêm chúng co cụm và thi thoảng chỉ bắn đạn chỉ thiên để dọa nạt”.
Chiều 18/02/1979, đại đội trưởng và chính trị viên đại đội cảnh sát cơ động bàn phương án đưa người dân trong hang ra vùng an toàn. Nhiều phương án được tính tới, trong đó có phương án đưa dân qua các khe núi hiểm trở để tránh quân Trung Quốc phát hiện (ông Bình gọi là yên ngựa). Tuy nhiên, bằng kinh nghiệm và một vài lần thăm dò quân Trung Quốc thông qua các lần đi tìm thức ăn, ông Bình ngăn cản phương án đó, bởi nếu đi giữa 2 khe núi ắt sẽ bị phục kích ở hai bên. Đại đội trưởng và chính trị viên thắc mắc thì ông phân tích: “Tôi là người khu vực này, nếu đi qua đó sẽ có 2 khẩu 12 ly 7 đợi sẵn”. Do vậy, phương án rời hang phải thay đổi, buổi tối hôm đó, ông Bình và ông Điện trinh sát lại khu vực để xem chỗ nào không bị phục kích, trước khi quyết định đưa người dân ra ngoài. Căn cứ vào điều kiện thực tế, nhận thấy tình hình yên ả hơn, ông Bình và ông Điện đề xuất đưa đại đội cảnh sát và người dân bắt đầu ra khỏi hang từ chiều ngày 19/02. Lối đi men bờ suối để ra quốc lộ 1B tới huyện Văn Quan. Lúc này, mọi người đã bàn nhau: “Nếu trên đường đi bị địch đánh thì phải chia nhỏ từng tốp để mở đường máu đưa bằng được dân ra khỏi vòng vây”.
Quả thật, quân Trung Quốc rất đông, hỏa lực mạnh, án ngữ nhiều nơi và đoàn người không tránh khỏi bị phục kích. Ông Điện và ông Bình lúc đó lấy hết sức để cõng những người bị thương ra khỏi vòng vây, một số đồng đội ông hy sinh ngay trước mặt. Nén lại nỗi đau, ông Bình, ông Điện cùng các chiến sĩ tiếp tục chiến đấu để đưa người dân về vùng an toàn. Trong thời gian từ chiều 19/02 đến sáng ngày 21/02, nhân dân mới đến được huyện Văn Quan. Lúc ra tới huyện Văn Quan, Trưởng ty Công an Đào Đình Bảng vỗ vai tiểu đội trưởng Nguyễn Văn Bình: “May quá, nhờ có đồng chí, nếu không thì đơn vị này không biết như thế nào”.
Trong cuộc giải vây đó đã có 13 chiến sĩ cảnh sát cơ động hy sinh. Sau này, khi nhắc lại sự kiện đó, Đại tá Triệu Quang Điện (nguyên Trưởng phòng Truy nã Công an tỉnh Lạng Sơn) nói: “Chúng giết hết dân, phá nhà cửa, lúc đó mình chỉ nghĩ làm sao để cứu được bà con mình ra”. Sau khi cuộc chiến đấu kết thúc, khi được Đảng, Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, ông Điện vẫn cho rằng: “Là thanh niên 18, đôi mươi, đi cứu dân, giữ nước là trách nhiệm của người chiến sĩ”.
ĐỖ TRUNG - NGUYỄN QUỐC - VĂN PHÚC

40 NĂM CUỘC CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ BIÊN GIỚI PHÍA BẮC (17/02/1979 - 17/02/2019)


Bài 1: Cuộc chiến chính nghĩa bảo vệ Tổ quốc

Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc Tổ quốc diễn ra trong bối cảnh nhân dân Việt Nam vừa kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng đất nước không lâu (1975), hậu quả chiến tranh để lại rất nặng nề. Chưa kể, nhân dân Việt Nam lại vừa phải trải qua cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam chống lại tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xary. Do đó, đây là thử thách rất lớn đối với nhân dân Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ.

40 NĂM CUỘC CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ BIÊN GIỚI PHÍA BẮC (17/02/1979 - 17/02/2019)

Phải khẳng định rằng, trong cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc đã có sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn đối với nhân dân Việt Nam trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. Tuy nhiên, sau Đại thắng mùa xuân (30/4/1975), giang sơn liền một dải, khi mối quan hệ của ta với Liên Xô khăng khít hơn..., Trung Quốc đã tăng cường các hoạt động quân sự, khiêu khích vũ trang, xâm lấn đất đai (từ 234 vụ năm 1975, 812 vụ năm 1976, tăng lên 873 vụ năm 1977 và 2.175 vụ năm 1978), gây tình hình căng thẳng, phức tạp trên vùng biên giới phía Bắc Việt Nam. Đặc biệt, khi thấy tập đoàn phản động Pôn Pốt bị quân dân Việt Nam trừng trị và bị nhân dân Campuchia (với sự giúp sức của quân tình nguyện Việt Nam) vùng lên đánh đổ, để đỡ đòn Pôn Pốt, đồng thời khích lệ Mỹ và các thế lực phản động khác tiếp tục chống phá cách mạng hai nước Campuchia và Việt Nam, ngày 17/02/1979, Trung Quốc mở cuộc tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc, dài hơn 1.400km.
Trước diễn biến ngày càng phức tạp ở biên giới phía Bắc, tháng 12/1978, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IV) họp, ra Nghị quyết xác định nhiệm vụ trong tình hình mới, trong đó nhấn mạnh “sẵn sàng mọi mặt công tác chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh quy mô lớn có thể xảy ra”. Tiếp đó, ngày 06/01/1979, Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ thị về việc tăng cường chiến đấu ở các tỉnh phía Bắc, nêu rõ: “Gấp rút đẩy mạnh công tác sẵn sàng chiến đấu ở các địa phương trên toàn tuyến biên giới, bảo đảm sẵn sàng đánh bại địch ngay từ đầu trong bất kỳ tình huống nào”. Hai ngày sau, ngày 08/01/1979, Quân ủy Trung ương ra Chỉ thị sẵn sàng chiến đấu, nêu rõ: “Tất cả các quân khu, quân chủng, binh chủng, đặc biệt là Quân khu 1, Quân khu 2 và các tỉnh biên giới phía Bắc, các quân chủng: Phòng không, Không quân, Hải quân phải ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu cao nhất…”.
Bất chấp nỗ lực giải quyết căng thẳng bằng con đường hòa bình của ta, dưới sự chỉ đạo của nhà cầm quyền Trung Quốc, từ 3h30’ ngày 17/02/1979, quân Trung Quốc sử dụng pháo binh bắn phá một số mục tiêu trong lãnh thổ của nước ta, sau đó huy động lực lượng lớn (hơn 600 nghìn quân) tiến công sang lãnh thổ Việt Nam. Hướng tiến công chủ yếu là Lạng Sơn và Cao Bằng; hướng quan trọng là Lào Cai; hướng phối hợp là Phong Thổ (Lai Châu); hướng nghi binh, thu hút lực lượng ta là Quảng Ninh và Hà Giang.
Trước cuộc tiến công quy mô lớn của Trung Quốc, ngày 18/02/1979, Chính phủ Việt Nam ra Tuyên bố về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của những người cầm quyền Trung Quốc, trong đó kêu gọi toàn dân, toàn quân đoàn kết một lòng, triệu người như một, nhất tề đứng dậy quyết chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Trên cơ sở Tuyên bố của Chính phủ, dưới sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, trên mặt trận Lạng Sơn (Quân khu 1), các lực lượng vũ trang địa phương nhanh chóng chặn đánh các mũi tiến công của quân bành trướng.
Trong những ngày đầu của cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới, Bộ Chính trị, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang cùng nhân dân địa phương phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, sử dụng lực lượng vũ trang Quân khu 1, Quân khu 2 trực tiếp chiến đấu và điều động một bộ phận lực lượng của các quân khu, các tỉnh phía sau lên tăng cường. Điển hình là Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo và điều động Sư đoàn Bộ binh 327 (Quân khu 3), Sư đoàn 337 (Quân khu 4) cơ động lên Quân khu 1; điều động 4 tiểu đoàn bộ đội địa phương TP Hà Nội lên mặt trận Lạng Sơn, 3 tiểu đoàn bộ đội địa phương Hải Phòng đến mặt trận Quảng Ninh và 3 tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Hà Sơn Bình lên mặt trận Hoàng Liên Sơn. Ngoài ra, đầu tháng 3/1979, Quân đoàn 2 nhanh chóng chuyển toàn bộ lực lượng từ Campuchia về tập kết ở khu vực phía Bắc Hà Nội bí mật, an toàn, sẵn sàng bảo vệ biên giới phía Bắc.
Về phía Trung Quốc, tính đến đầu tháng 3/1979, trên dọc tuyến biên giới phía Bắc, đối phương đã chiếm được các thị xã: Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai, Cam Đường, Phố Lu, Sa Pa và một số thị trấn trên vùng biên giới. Nhằm ngăn chặn sự mở rộng tiến công xâm lược của Trung Quốc, ngày 05/3/1979, Chủ tịch nước công bố Lệnh tổng động viên lực lượng để bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, hàng triệu người, chủ yếu là thanh niên ở hầu khắp các tỉnh, thành phố đã tình nguyện đăng ký gia nhập lực lượng vũ trang, ra mặt trận, lên tuyến trước xây dựng trận địa chống quân thù. Nhiều đoàn viên, thanh niên ở Hà Nội và các địa phương khác đã viết đơn tình nguyện lên biên giới để được trực tiếp tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Đặc biệt, chấp hành Lệnh tổng động viên của Chủ tịch nước, trên hai hướng Quân khu 1 và Quân khu 2, toàn quân và toàn dân đã tích cực chuẩn bị, tăng cường tổ chức lực lượng, củng cố và xây dựng thêm một số đơn vị, sẵn sàng chiến đấu, tập trung cho phản công đánh bật quân Trung Quốc ra khỏi biên giới Tổ quốc. Trước những tổn thất lớn về lực lượng và bị dư luận quốc tế phản đối mạnh mẽ, ngày 05/3/1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân trên toàn tuyến biên giới phía Bắc. Với truyền thống nhân nghĩa và lòng mong muốn củng cố hòa bình, hữu nghị giữa nhân dân hai nước, Trung ương Đảng và Chính phủ Việt Nam chỉ thị cho các lực lượng vũ trang và nhân dân trên vùng biên giới phía Bắc ngừng mọi hoạt động tiến công quân sự để Trung Quốc được yên ổn rút toàn bộ lực lượng và phương tiện chiến tranh về nước.
Ngày 07/3/1979, Báo Nhân Dân đăng Xã luận nêu rõ thắng lợi của quân và dân Việt Nam, trong đó nhấn mạnh: “Bọn xâm lược không thể đùa giỡn với ý chí của chúng ta, càng không thể đùa giỡn với sức mạnh bách chiến bách thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam và dân tộc Việt Nam chúng ta”. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc (tính từ ngày 17/02 đến 18/3/1979), quân và dân ta đã gây tổn thất cho 9 quân đoàn chủ lực, loại khỏi vòng chiến đấu 62.500 quân, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn, bắn cháy và phá hủy 550 xe quân sự, trong đó có 280 xe tăng và xe bọc thép, phá hủy 115 khẩu pháo và cối hạng nặng, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự... của quân bành trướng.
Không thành công với mục tiêu “đánh nhanh, thắng nhanh” do bị sự kháng cự quyết liệt của quân ta và thiệt hại nặng nề, trong quá trình rút quân, quân Trung Quốc đã phá hoại nhiều thị trấn và các thị xã: Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn; phá hủy nhiều đường sá, cầu cống… Trước tình hình đó, Bộ Chính trị chủ trương “để cho địch rút quân và ngừng triển khai cuộc phản công, nhưng tiếp tục dùng lực lượng tại chỗ đánh nhằm hạn chế các hoạt động phá hoại của địch, thúc đẩy chúng rút nhanh hơn”. Đến ngày 18/3/1979, trên toàn tuyến biên giới phía Bắc cơ bản quân Trung Quốc đã rút khỏi đất Việt Nam.
Nhìn lại cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc năm 1979 là dịp để tôn vinh, tri ân những người đã ngã xuống vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc, giáo dục cho thế hệ trẻ về truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường và quyết tâm bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, phấn đấu vươn lên xây dựng một Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như Bác Hồ mong đợi lúc sinh thời! 

VŨ THÀNH TRUNG (Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng)

Thứ Bảy, 10 tháng 11, 2018

SOUTH CHINA SEA KHÔNG PHẢI CỦA TRUNG QUỐC

Vừa rồi có cái hội thảo về Biển Đông tổ chức ở Đà Nẵng, trên backdrop có chữ "South China Sea" gây ra nhiều tranh cãi. Nhiều người dè bỉu và chửi rủa xa xả không tiếc lời, đến mức không tiện nhắc lại. Đã có nhiều nhà nghiên cứu, nhà trí thức lên tiếng về vấn đề này.
Nhưng nôm na lại thì:
ẤN ĐỘ DƯƠNG KHÔNG PHẢI CỦA ẤN ĐỘ
VỊNH THÁI LAN KHÔNG PHẢI CỦA THÁI LAN
THÁI BÌNH DƯƠNG CŨNG KHÔNG PHẢI CỦA TỈNH THÁI BÌNH.
Và, SOUTH CHINA SEA KHÔNG PHẢI CỦA TRUNG QUỐC

SOUTH CHINA SEA KHÔNG PHẢI CỦA TRUNG QUỐC

Thực ra thì cụm từ “South China Sea” là tên tiếng Anh QUỐC TẾ của vùng biển bao phủ một diện tích từ Singapore tới eo biển Đài Loan với diện tích áng chừng khoảng 3.500.000km2, hai hướng Đông và Tây tiếp giáp với Philippines và Việt Nam. Các nước xung quanh thì gọi nó bằng nhiều tên khác nhau, thường là về vị trí địa lý so với  đất nước họ. Việt Nam gọi bằng tên Biển Đông, Philippines gọi là biển Tây Philippines.
Và “South China Sea”“biển Nam Trung Hoa” không phải của Trung Quốc, đấy là điều chắc chắn. Tên đại dương (ocean), tên biển (sea), tên vịnh (gulf) chỉ là cái tên gọi mà người ta đặt để gọi và để dễ tra cứu, nó không liên quan đến chủ quyền hay quyền tài phán.
Cách đây 500 năm (vào thế kỷ 16), các thủy thủ Bồ Đào Nha, những người đầu tiên của thế giới có hạm đội tàu vượt đại dương gọi nó là Biển Trung Hoa (Mare da China), bởi thời ấy Trung Quốc là quốc gia rộng lớn nhất, phát triển nhất trong khu vực và đấy là tuyến đường từ châu Âu và Nam Á đến Trung Quốc để giao thương buôn bán, đặc biệt là tơ lụa. Những năm sau đó người ta đổi tên thành South China Sea để phân biệt với vùng biển phía đông Trung Quốc cũng có tên là China Sea.
Cũng theo cách đặt tên như vậy, Ấn Độ Dương (India Ocean) không phải của Ấn Độ, nó là đại dương ở phía nam Ấn Độ, giáp nhiều nước ở châu Á và châu Phi; hay biển Nhật Bản (Japan Sea) không phải của Nhật Bản, nó bao quanh bởi Nga, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc và Nhật Bản; hay Arabian Sea không phải của các nước Arabia, nó bao quanh bởi Ấn Độ, Pakistan, Somalia, Iran, Oman và Yemen; hay biển Timor (Timor Sea) không phải của Timor Leste, nó được bao quanh bởi Úc và Timor Leste; hay Vịnh Mexico (Gulf of Mexico) không phải của Mexico, nó được bao quanh bởi Mỹ, Cu Ba và Mexico; hay Vịnh Thái Lan (Gulf of Thailand) không phải của Thái Lan, nó được bao quanh bởi Malaysia, Thái Lan, Cambodia và Việt Nam.
Cái tên South China Sea đã tồn tại gần 500 năm nay, là thuật ngữ chủ yếu được sử dụng trong tiếng Anh cho biển, trong tiếng Đức, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha nó được dùng các từ có ý nghĩa tương đương trên bản đồ thế giới: Người Pháp gọi là “Mer de Chine méridionale” (các bản đồ thế giới thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20), người Đức gọi là “Südchinesisches Meer” (bản đồ thế giới 1890). Ở khu vực châu Á, người Thái Lan gọi là “Thale Chin Tai”, người Malay và Indonesia gọi là “Laut Cina Selatan”, người Nhật gọi là “Minami Shina Kai”.
Cái tên South China Sea chỉ bắt đầu có vấn đề khi Trung Quốc leo thang tranh chấp quần đảo Trường Sa năm 2011 bằng việc bồi đắp quy mô lớn các đảo chìm, Philippines bắt đầu sử dụng tên “West Philippine Sea (biển Tây Philippines), một số học giả, sử gia đề xuất đổi tên biển thành "biển Đông Nam Á" ("Southeast Asia Sea") hay biển Đông Nam châu Á (South East Asia Sea).
Việt Nam chúng ta đã dùng tên gọi Biển Đông (East Sea) từ rất lâu, ít nhất là từ thời cụ Nguyễn Trãi (trong Bình Ngô đại cáo), sau này cụ Phan Huy Chú (1782 - 1840) cũng ghi lại trong Lịch triều hiến chương loại chí.
     Vì vậy dù Trung Quốc hay thế giới có gọi là East Sea hay South China Sea thì Biển Đông không bao giờ, chưa bao giờ là của Trung Quốc./.