KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, THỜI ĐẠI CỦA CHIẾN THẮNG 30 THÁNG 4

Năm nay, trong những ngày hướng đến kỷ niệm Chiến thắng lịch sử vĩ đại 30/4/1975, nhân dân ta đón mừng sự kiện này với nhiều niềm vui mới. Theo báo cáo của Chính phủ, kinh tế Việt Nam năm 2018 khởi sắc trên cả ba khu vực sản xuất, cung - cầu của nền kinh tế cùng song hành phát triển.

NHẬN DIỆN VÀ NGĂN NGỪA THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG LÒNG YÊU NƯỚC ĐỂ KÍCH ĐỘNG NGƯỜI DÂN XUỐNG ĐƯỜNG BIỂU TÌNH, GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Người yêu nước chân chính là người biết sử dụng pháp luật, đạo đức, truyền thống tốt đẹp để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, đồng thời phải biết tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Nhận diện được phương thức, thủ đoạn lợi dụng lòng yêu nước để kích động nhân dân làm việc xấu chính là nhằm đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp, đồng thời tránh được sự lợi dụng đó để gây ra rối loạn xã hội, phức tạp tình hình.

Thông cáo báo chí kỳ họp 32 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Từ ngày 03 đến 06/12/2018 tại Hà Nội, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã họp kỳ 32. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương chủ trì kỳ họp.

UBKTTW kết luận vụ AVG: Sai phạm của ông Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn là rất nghiêm trọng

UBKTTW vừa họp kỳ 26 kết luận vụ AVG có những vi phạm của Ban cán sự đảng Bộ TT-TT, ông Nguyễn Bắc Son, ông Trương Minh Tuấn, ông Phạm Đình Trọng, của Ban Thường vụ Đảng ủy Mobifone và các ông Lê Nam Trà, Cao Duy Hải là rất nghiêm trọng.

Bốn kỳ vọng thay đổi lớn về công tác cán bộ sau 4 ngày Hội nghị T.Ư 7

Sau 4 ngày làm việc, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng được dư luận đặc biệt quan tâm, trong đó có công tác cán bộ, bởi đây là vấn đề “nóng” trong tình hình hiện nay.

Hiển thị các bài đăng có nhãn ngụy quân. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn ngụy quân. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 26 tháng 5, 2019

NHỮNG CÂU NÓI THƯỜNG GẶP Ở NHỮNG KẺ CHỐNG CỘNG

(Bài hơi dài nhưng mong các bạn hãy đọc để hiểu từng vấn đề cụ thể). 

NHỮNG CÂU NÓI THƯỜNG GẶP Ở NHỮNG KẺ CHỐNG CỘNG

1. Không cần đánh Pháp thì cũng độc lập?
Chẳng khác nào bị ăn cướp rồi ngồi chờ ăn cướp trả lại. Và tất cả các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của Việt Nam và các nước khác trên thế giới là sai lầm?!
Algeria nhờ tấm gương Việt Nam mà vùng lên đánh Pháp mới giành được độc lập. Việt Nam cũng đã qua 100 năm chờ Pháp trả độc lập mà chúng có chịu trả không? Đánh cho tơi bời chúng mới cút nhưng vẫn để lại cái vĩ tuyến 17 oan nghiệt. Còn đặc biệt người thổ dân da đỏ đã chờ 500 năm rồi, người Anglo Saxon đã trả độc lập cho họ đâu?
Và tại sao người Mỹ không ngồi đó chờ thực dân Anh ban bố độc lập mà phải đánh lại mẫu quốc?
Nếu có trách thì phải trách Pháp, Mỹ và tay sai người Việt chứ không thể trách người kháng chiến, đó là trách ngược! Cuộc kháng chiến có thể đã không xảy ra nếu Mỹ không ủng hộ Pháp quay lại Việt Nam.
Không bao giờ có chuyện tự nhiên độc lập được trao trả. Con đường chính trị Việt Nam đã thử đó là chịu độc lập trong khối liên hiệp Pháp, nhưng Pháp chỉ muốn một chính quyền bù nhìn như Bảo Đại tức là mọi thứ vẫn như cũ và Pháp đã nổ súng tấn công trước nên cuộc kháng chiến mới chính thức nổ ra.
Điểm ngụy biện ở đây là: xem kẻ xâm lược là văn minh và đạo đức.

2. Mỹ không xâm lược Việt Nam?
Hành động gọi là xâm lược không chỉ gói gọn ở trường hợp xâm chiếm lãnh thổ nước khác rồi sát nhập vào của mình mà còn là trường hợp trực tiếp can thiệp chính trị, quân sự vào một quốc gia, cướp đoạt chủ quyền phục vụ cho lợi ích đế quốc của mình.
Cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ thuộc vào trường hợp thứ hai.
Mỹ quyết định can thiệp trực tiếp khi Pháp thua và biết rằng nếu Tổng tuyển cử xảy ra, 80% dân sẽ bầu cho Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mỹ đã cướp đoạt chủ quyền Việt Nam bằng cách dùng cơ quan tình báo CIA xây dựng chính quyền cho Diệm, một người không có công lao kháng Pháp và không có một lực lượng chính trị hậu thuẫn ở Việt Nam để tự xây dựng chính quyền.
CIA tiến hành chiến tranh tâm lý phá hoại miền Bắc và lừa gạt lôi kéo người Công giáo miền Bắc vào Nam để hy vọng xây dựng một hậu thuẫn chính trị cho Diệm.
Khi Diệm trở nên bất kham, Mỹ bật đèn xanh cho tướng tá ngụy giết Diệm. Rõ ràng ông chủ thực sự của chính quyền ngụy là Mỹ chứ không phải tổng thống ngụy.
Khi nhắm thấy quân ngụy không thể thắng trong một cuộc đối đầu quân sự với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, Mỹ đã trực tiếp đem quân vào. Cuộc xâm lược quân sự bắt đầu.
Quân đội Mỹ phải trực tiếp nhảy vào vì quân đội ngụy phần lớn là những người bị ép buộc nên không có tinh thần chiến đấu. Và sau khi tất cả các chiêu trò được tung ra đều thất bại, Mỹ phải đưa ra chiến lược cuối cùng là “Việt Nam hóa chiến tranh, thay màu da trên xác chết”. Cái tên của chiến lược này đã chứng minh hùng hồn cuộc chiến trước đó là cuộc chiến Mỹ - Việt và Mỹ đã xâm lược Việt Nam.
Nếu cuộc chiến của Mỹ không phải là xâm lược thì nhà Thanh đã không xâm lược Việt Nam khi đem quân vào miền Bắc giúp Lê Chiêu Thống khôi phục nhà Lê. Nhà Lê so với chính quyền Diệm còn có chính danh hơn vì nguyên thủy nó không phải là do nhà Thanh dựng lên như Mỹ dựng lên VNCH.
Điểm ngụy biện ở đây là: Xem quân Mỹ và CIA chuyên làm từ thiện!!!

3. Cuộc chiến tranh đó là một cuộc nội chiến, huynh đệ tương tàn?
Như vừa nói ở trên, nếu đó là “nội chiến” thì không thể nào có cái chiến lược gọi là “Việt Nam hóa chiến tranh”. Quân đội miền Bắc và quân giải phóng miền Nam chỉ đánh Mỹ là chính trong hầu hết thời gian cuộc chiến. Đối với quân ngụy thì hù cho chạy là chính. Quân ngụy trừ số đã bị tẩy não quá nặng thì không có ý chí chém giết với người Việt Nam. Nếu không có Mỹ ở Việt Nam gây chia rẽ thì rõ ràng người Việt Nam không có lý do để có một cuộc chiến tương tàn.
Nội chiến là chiến tranh nội bộ. Tự điển dịch là “chiến tranh giữa các giai cấp hoặc lực lượng xã hội đối kháng trong một nước”. Trừ khi nước Mỹ là một phần của Việt Nam và người Mỹ là người Việt Nam, cuộc chiến đó không thể nào có thể gọi là một cuộc nội chiến.
Điểm ngụy biện ở đây là: xem Mỹ là người Việt Nam, xem người Bắc Việt Nam là người... nước ngoài.

4. “Miền Bắc xâm lược, cưỡng chiếm miền Nam”?
Nếu nói miền này xâm lược, cưỡng chiếm miền kia trong cùng một nước thì hóa ra một nước có thể tự xâm lược chính mình sao? Như vậy sách giáo khoa lịch sử của thế giới và Việt Nam cần phải đổi lại hết dùng từ “xâm lược” cho tất cả các cuộc chiến giữa miền này với miền kia trong cùng một nước.
Như vậy nội chiến Mỹ là một cuộc chiến xâm lược. Miền Nam muốn tách ra vì không đồng ý với chủ trương của miền Bắc và miền Bắc đã “xâm lược”, “cưỡng chiếm” miền Nam nước Mỹ.
Việc Vua Quang Trung đánh ra Bắc chiếm lại Bắc Hà do quân Thanh chiếm đóng theo lời cầu viện của Lê Chiêu Thống cũng là một cuộc chiến xâm lược, cưỡng chiếm Bắc Hà!
Hơn nữa miền Bắc, miền Nam chỉ là sự phân chia địa lý chứ không phải là dân miền Bắc đánh dân miền Nam vì chính quyền ngụy được xây dựng bằng thành phần nòng cốt là dân Công giáo miền Bắc di cư vào Nam và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam là do người miền Nam lãnh đạo và tham gia.
Lại còn miền Trung thì sao?! Âm mưu chia cắt vĩnh viễn Việt Nam làm đôi, gây ra sự phân biệt, thù hằn Bắc-Nam là ý chí của Mỹ chứ không phải của dân bất cứ một miền nào của Việt Nam.
Do đó đây là cuộc chiến tranh giành độc lập thống nhất giữa đại đa số bao gồm cả người Bắc-Trung-Nam với lý tưởng đó chống lại Mỹ và ngụy là một thiểu số cũng bao gồm cả người Bắc-Trung-Nam.
Nếu dùng chữ xâm lược thì phải sửa thêm là nửa miền Nam này xâm lược nửa miền Nam kia luôn vì phần lớn vùng nông thôn Việt Nam theo phía cộng sản.
Điểm ngụy biện ở đây là: xem Việt Nam là 2 quốc gia và xem Mỹ là không có vai trò gì.

5. Mỹ vào Việt Nam là để giúp miền Nam, giúp Việt Nam?
Mỹ giúp thực dân Pháp tái chiếm và bình định Việt Nam.
Pháp thua thì Mỹ trực tiếp nhảy vào cướp chủ quyền chia cắt Việt Nam.
Mỹ dựng lên chính quyền độc tài gia đình trị của Ngô Đình Diệm và các chính quyền độc tài quân sự sau đó và Mỹ mới là chủ nắm đầu đằng sau.
Mỹ đã tàn phá gần như toàn bộ đất nước Việt Nam: ném bom bừa bãi, rải chất độc làm chết hàng triệu dân thường. Di chứng hậu quả của sự tàn bạo đó còn tồn tại cho đến ngày hôm nay và cả trăm năm sau.
Đào khoét sâu thêm chia rẽ dân tộc.
Những mục tiêu, việc làm như trên của Mỹ ở Việt Nam là phá chứ không phải giúp Việt Nam.
Điểm ngụy biện ở đây là: xem chuyện Pháp và Mỹ giết người Việt Nam là việc nghĩa.

6. Việt Nam cộng hòa (VNCH) có dân chủ?
Chính quyền VNCH là một chính quyền do Mỹ xây dựng. Diệm là do Mỹ tuyển và đưa lên qua cuộc trưng cầu dân ý gian lận phế truất Bảo Đại. Khi Mỹ không điều khiển được Diệm thì bật đèn xanh để tướng tá ngụy giết. Các tướng tá ngụy sợ Mỹ hơn sợ tổng thống của họ. Rõ ràng Mỹ là chủ ở đây chứ không phải dân.
Nguyện vọng của dân quê miền Nam theo cộng sản không được xem xét mà chỉ bị đàn áp.
Nếu bạn xem chính quyền, quân đội Mỹ là dân Việt Nam, còn dân nông thôn Việt Nam theo cộng sản là người nước ngoài thì VNCH đúng là có dân chủ.
Một đất nước do đế quốc nước ngoài nắm đầu thì không thể gọi là dân chủ.
Điểm ngụy biện ở đây là: xem Mỹ là tay sai của ông Diệm, ông Thiệu.

7. Miền Bắc cũng nhận viện trợ và được Liên Xô và Trung Quốc giúp chả khác gì miền Nam được Mỹ và đồng minh giúp?
Lại nên lưu ý về cách dùng miền Bắc, miền Nam để đại diện phe phái một cách không chính xác/dùng ngụy biện ở trên.
Miền Bắc và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam chỉ nhận viện trợ là để chống quân Mỹ vào Việt Nam xâm lược.
Ngụy được trả lương, chịu sự chỉ huy, điều động của Mỹ và quân đội Mỹ trực tiếp nhảy vào đánh giết người Việt Nam ngoài chuyện viện trợ ra.
Giúp đỡ viện trợ, gửi cố vấn so với đem cả nửa triệu quân trực tiếp vào xâm lược nắm đầu một nửa nước, đánh giết tàn phá cả một đất nước là hai chuyện hoàn toàn khác nhau.
Điểm ngụy biện ở đây là: xem bạn bè giúp dân tộc sống còn và độc lập như kẻ thù, xem kẻ thù giết dân, chia rẻ đất nước và dân tộc là bạn bè...

8. Chiến tranh ý thức hệ?
Việt Nam không có vấn đề với ý thức hệ dân chủ của Mỹ. Chính quyền Việt Nam được xây dựng năm 1945 là một chính quyền đa đảng. Việt Nam không có ý định chống lại ý thức hệ gì đó của Mỹ mà chỉ muốn độc lập.
Thứ tự câu chuyện:
- Chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hòa kêu gọi Mỹ ủng hộ độc lập cho Việt Nam, giúp Việt Nam chống Pháp quay lại, nguyện giao hảo và hợp tác toàn diện với Mỹ ngay từ năm 1945 và sau đó 1946.
- Mỹ đã phớt lờ và quay sang giúp Pháp tái chiếm Việt Nam.
- Mỹ không giúp Việt Nam lại giúp Pháp cho nên Việt Nam mới tự chống Pháp và sau đó nhờ đến Liên Xô và Trung Quốc. Nên nhớ Cộng sản Trung Quốc chưa lên nắm quyền vào những năm 1945 mà là năm 1949.
- Mỹ lại viện cớ Việt Nam nhờ Liên Xô và Trung Quốc giúp tức là chống lại ý thức hệ dân chủ của Mỹ!
Nếu ý thức hệ dân chủ của Mỹ có nghĩa là giúp đỡ thực dân Pháp cướp nước, đô hộ Việt Nam một lần nữa thì Việt Nam chống lại là đúng!
Thực tế cuộc chiến là Mỹ đem quân xâm lược muốn chia cắt Việt Nam vĩnh viễn nên người Việt Nam phải chống lại. Đó là ý thức độc lập chống lại ý thức muốn nắm đầu nước khác bằng bạo lực của đế quốc.
Việt Nam nói chung không có nhu cầu chống cộng. Cộng sản quốc tế đã giúp Việt Nam đánh đuổi thực dân Pháp thì tại sao người Việt phải chống cộng? Và mâu thuẫn giữa chủ nghĩa này hay khác trong nội bộ Việt Nam thì nước ngoài cũng không được xen vào.
Không có nước nào có quyền đem quân vào Mỹ để chống chủ nghĩa gì ở bên trong nước Mỹ cả, như vậy Mỹ không có cái quyền đem quân vào Việt Nam để chống cộng!
Nếu nói rằng vì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được 80% dân chúng ủng hộ nên Mỹ phải nhảy vào chia Việt Nam làm hai để chống cộng thì rất buồn cười và vô lý và càng không thể biện minh cho sự xâm lược của Mỹ.
Nếu bây giờ một đảng A của Mỹ nhắm chừng sẽ thua đảng B trong một cuộc bầu cử thì những người của đảng A có quyền lập ra một quốc gia mới tách rời ra khỏi nước Mỹ với sự giúp đỡ trực tiếp của một cơ quan tình báo nước ngoài không?
Chuyện như trên đã xảy ra ở Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh không có đối thủ trong một cuộc tổng tuyển cử nên Mỹ đã đem Diệm từ Mỹ về để đưa lên làm tổng thống qua một vụ trưng cầu dân ý gian lận lật đổ Bảo Đại. Cơ quan tình báo CIA của Mỹ do đại tá Edward Landsdale đã xây dựng chính quyền ngụy bằng cách tiến hành một chiến dịch chiến tranh tâm lý Passage to Freedom lôi kéo người Công giáo (catholic) miền Bắc vào làm lực lượng hậu thuẫn cho Diệm.
Điểm ngụy biện ở đây là: xem nước Việt Nam là lãnh thổ nước Pháp hay nước Mỹ chứ dứt khoát không phải của Việt Nam nên chỉ khi chúng cho độc lập thì mới được.

9. Miền Nam giàu miền Bắc nghèo suy ra miền Nam không cần miền Bắc giải phóng?
Phần lớn miền Nam là chiến trường ác liệt thì làm sao giàu? Sài Gòn giàu nhưng chỉ là một thành phố của miền Nam chứ không phải là toàn bộ miền Nam. Vì Sài Gòn là đầu mối Mỹ đổ viện trợ dân sự, quân sự, tiền lương quân lính ăn chơi vào Sài Gòn nên mới giàu và kinh tế nằm trong tay người tàu Chợ Lớn. Sự giàu có này đòi hỏi ngụy làm cai thầu chiến tranh cho Mỹ. Thôn quê miền Nam và cả miền Bắc phải bị tàn phá, hàng ngàn người phải chết vì bom đạn, chất độc mỗi ngày. Hậu quả của những sự tàn phá đó vẫn tiếp tục kéo dài hàng trăm năm. Giàu cái kiểu cả nước phải chịu khổ cho một thành phố giàu thì cần phải chấm dứt và Sài Gòn cần phải được giải phóng gấp!
Quyền lợi của một nhóm người nhỏ lợi dụng chiến tranh để trục lợi làm giàu không thể đặt trên quyền lợi của cả một dân tộc.
Miền Nam giàu như thế nào? Theo lời một phóng viên Úc thì “miền Nam được nhớ đến với một nền kinh tế dựa trên chợ đen, ma túy, đĩ điếm và trục lợi nhờ chiến tranh (South Vietnam is rememberedas having an economy based on a black market, drugs, prostitution and warprofiteering). 
Còn theo lời Thượng nghị sĩ J. W. Fulbright vào năm 1966 thì “Hòn ngọc Viễn Đông” là một “động đĩ của Mỹ”.
 Phải nói là cả Việt Nam giải phóng Sài Gòn khỏi tay Mỹ ngụy vì nếu chỉ có miền Bắc thì không thể có khả năng đó.
Điểm ngụy biện ở đây là: xem bán nước là một nghề của “giới cao quý” được tây nuôi dạy tử tế.

10. Chiến tranh mà!
Khi có ai đó nhắc đến tội ác Mỹ ngụy thì có nhiều người lại ngụy biện bằng một câu ngắn: “Chiến tranh mà” để khỏa lấp đánh đồng tất cả. Chiến tranh không tự xảy ra nên không thể đổ lỗi cho chiến tranh mà phải truy cứu ai đã gây ra chiến tranh. Nếu đồng ý chiến tranh là tội ác thì phía gây ra chiến tranh đã gây ra tội ác.
Việt Nam không có nhu cầu gây chiến tranh với Mỹ và đã không tấn công nước Mỹ.
Người Việt Nam chỉ muốn bầu cử thống nhất đất nước.
Do đó Mỹ không có bất cứ quyền, lý do gì gây ra chiến tranh ở Việt Nam. Chuyện chính trị nội bộ Việt Nam phải do người Việt Nam giải quyết.
Nhưng Mỹ đã gây ra chiến tranh và tội ác theo sau.
Và chiến tranh có luật của chiến tranh, không thể giết thường dân vô tội vạ như Mỹ đã làm. Ném bom, bắn giết một cách bừa bãi, đặt thôn quê nào đó là vùng “tự do oanh kích FFZ”, “giết tất cả những gì động đậy” thì đó là tội ác chống lại loài người.
Điểm ngụy biện ở đây là: xem quân Mỹ giết người vô tội là vô tội.

11. Đối xử sai lầm đối với ngụy quân, ngụy quyền sau ngày giải phóng.
Đối với những người chống cộng đương nhiên ngày 30 tháng 4 không phải là ngày “giải phóng” vì họ đã mất đi địa vị “lên voi”. Nhiều triệu người đã phải hy sinh cả mạng sống để Việt Nam có hòa bình thống nhất, không còn chém giết nhưng họ lại buồn hận chỉ vì địa vị ăn trên ngồi tróc bị đá đổ! Buồn hận kiểu này có nên được thông cảm không?
Họ là vàng còn cả dân tộc là cỏ rác hay sao?
Họ đã vẽ ra viễn cảnh và tuyên truyền là sẽ bị trả thù ghê gớm nhưng chuyện đó đã không xảy ra. Họ chỉ bị đi cải tạo nhưng cải tạo càng lâu thì càng có khả năng đi Mỹ. Có nhiều người còn nuối tiếc rằng mình không được cải tạo đủ lâu để được đi Mỹ, buồn cười vậy!
So sánh với nội chiến Mỹ rồi bảo rằng trường hợp “bên thắng cuộc” phải đối xử với “bên thua cuộc” như nội chiến Mỹ là một so sánh khập khễnh. Nội chiến Mỹ là... nội chiến, cuộc chiến ở Việt Nam không phải là nội chiến mà là cuộc chiến tranh chống sự can thiệp thô bạo và xâm lược của Mỹ.
Mặc dù vậy sau nội chiến Mỹ, kinh tế một thời giàu có của miền Nam đã bị phá hủy. Thu nhập bình quân giảm xuống còn 40% so với miền Bắc. Tình trạng đó tiếp diễn đến một thời gian dài sau thế kỷ 20.
Sau khi Nhật tấn công Trân Châu Cảng, Mỹ đã nhốt trên 100 ngàn người Nhật cả già trẻ lớn bé vào trại tập trung chỉ vì nghi ngờ họ không trung thành với nước Mỹ.
Luật ở Mỹ cũng phạt nặng thậm chí tử hình ai dám giúp đỡ kẻ thù chống lại nước Mỹ. Nếu có thành phần làm tay sai cho nước khác xâm lược chia cắt nước Mỹ thì tôi bảo đảm sẽ chết và không còn dịp để chê Mỹ ác!
Trường hợp Việt Nam thì sau khi ra tù họ lại được định cư ở một nước giàu nhất, dân chủ tự do nhất thế giới, con cháu họ ngày nay toàn là công dân Mỹ, như vậy còn muốn gì nữa? Còn buồn còn hận gì nữa?!
Loại người này là loại người cực kỳ tham lam ích kỷ, làm như mình là bố của cả người Việt và Mỹ vậy. Người đâu tiền đâu mà cứ đổ vào cuộc chiến như thế để họ tiếp tục sướng?!
Điểm ngụy biện ở đây là: xem việc tha mạng sống cho quân đối địch là tội lỗi...

12. Nếu không giải phóng thì miền Nam cũng như Nam Hàn bây giờ?
Để một nửa giàu và một nửa kia phải đói là lựa chọn tốt hơn Việt Nam bây giờ? Có cần thiết phải như vậy không? Đầu óc bạn có còn bình thường không?
Việt Nam đã trải qua hơn 40 năm chiến tranh, 20 năm cấm vận nhưng bây giờ cũng đâu đến nỗi nào? Như vậy tại sao bây giờ lại mơ ước một nửa đói để cho một nửa kia được giàu?!
Nếu đã phải giả sử thì sao không nói rằng nếu Mỹ không chen vào chuyện của Việt Nam và bán đảo Triều Tiên thì cả hai nước đều đã độc lập và còn giàu mạnh hơn Nam Hàn bây giờ và không có thù hận chia rẽ!
Không thể trách Liên Xô hay Trung Quốc vì hai nước đó đã để yên cho người dân bán đảo Triều Tiên và Việt Nam tự quyết. Mỹ muốn chống cộng thì sang Tàu sang Liên Xô mà chống! Cộng sản Liên Xô/Tàu đâu có xâm lược Việt Nam hay Triều Tiên?
Nếu Mỹ không trực tiếp can thiệp thì đã không có chiến tranh và đã thống nhất từ lâu. Nếu có chiến tranh chăng nữa thì cũng chóng vánh và không thể gây ra tàn phá, thiệt hại, chia rẽ, hận thù lâu dài như khi Mỹ trực tiếp nhảy vào.
Trường hợp Trung Quốc vì là nước lớn nên Mỹ không dám can thiệp sâu, do đó đã cơ bản thống nhất từ 1949 và vì vậy cho dù có áp dụng đường lối kinh tế sai lầm thì vẫn có thể sửa đổi và phát triển mạnh trong suốt hơn 30 năm nay.
Nam Hàn giàu có nhưng với cái giá là phải coi Bắc Hàn là kẻ thù không đội trời chung và nếu tiếp tục chọc sùng Bắc Hàn thì tất cả có thể quay về thời kỳ đồ đá! Tương lai dân tộc không biết đi về đâu khi vì tiền mà phải phục vụ cho ý chí của Mỹ. Có cần phải trả cái giá như thế để giàu không nhỉ?
Điểm ngụy biện ở đây là: xem sự nỗ lực vươn lên của dân Hàn Quốc chắc chỉ là cỏ rác, chỉ có Mỹ là đáng kể.

Lời kết:
Ngụy biện còn nhiều nhưng tạm thế. Biết rằng rất khó nhưng chúng ta hãy cùng hy vọng một ngày nào đó các xác sống chống cộng sẽ được giải bùa mà quên đi thù hận để được nhẹ nhàng siêu thoát.

Chủ Nhật, 1 tháng 4, 2018

“NGỤY” - BẢN CHẤT VÀ TÊN GỌI


Thời gian gần đây, xung quanh việc bộ sách Lịch sử Việt Nam với hơn 10.000 trang (15 tập) từ thời khởi thủy của nước ta đến năm 2.000 không sử dụng cụm từ “ngụy” để chỉ quân đội và chính quyền của chế độ cũ tại miền Nam trước năm 1975. Rồi lùm xùm bộ sách lịch sử 30 tập, trong đó 25 tập chính và 5 tập biên niên sử là đề án khoa học cấp Nhà nước do ông GS. Phan Huy Lê, em trai ông Phan Huy Quát (cựu Thủ tướng của cái gọi là “Việt Nam cộng hòa” trước đây) làm chủ nhiệm cũng không dùng từ “ngụy” để chỉ chế độ cũ. Nhiều vấn ý trái chiều, tranh luận nào là nên - không nên, rồi thì quy chụp “xét lại lịch sử”, hay thay đổi cách nhìn về cuộc chiến… Vì vậy, góp phần nào đó để nhiều người có một góc nhìn khác, khách quan hơn và đúng đắn hơn về những tranh cãi gần đây với nội dung ghi trên, tôi xin trình bày một số quan điểm mang tính cá nhân dựa trên những hiểu biết của bản thân, phương pháp luận và trình độ lý luận chính trị có giới hạn.
Cũng như Phùng Quán đã trình bày trong “ba phút sự thật” tôi là một người có lối hành văn hơi dông dài nên với tôi 3 phút để nói lên sự thật thì thật khó, nên xin bạn đọc cho tôi trình bày hơi dài để diễn đạt ý và nêu các dữ kiện lịch sử. 
Trước hết, từ “ngụy” trong từ điển Hán - Việt nghĩa là gì? Sau khi tra cứu rất nhiều từ điển Hán - Việt cho thấy từ “ngụy” nghĩa là giả vờ, giả tạo, dối trá hoặc là không chính thống. Như vậy, về mặt ngữ nghĩa có thể tạm hiểu nôm na “ngụy quyền” tức là chỉ một “chính quyền không phải chính thống, không được công nhận, không hợp pháp". Còn theo Từ điển bách khoa Quân sự Việt Nam:
- “Ngụy quyền”“chính quyền do bọn phản loạn trong nước lập ra bất hợp pháp, đi ngược lại lợi ích quốc gia dân tộc nhưng giả danh “hợp pháp”, “dân chủ”, “chính nghĩa”, “quốc gia”” hoặc là một “chính quyền bản xứ do thế lực nước ngoài dựng lên, nuôi dưỡng, sử dụng làm công cụ thực hiện chính sách xâm lược, nô dịch của họ”.
- “Ngụy quân”“quân đội của ngụy quyền, do chính quyền của bọn phản loạn hoặc chính quyền bản xứ lập ra được thế lực nước ngoài dựng lên, nuôi dưỡng, trang bị và chỉ huy để thực hiện chính sách “dùng người bản xứ đánh người bản xứ” trong các cuộc chiến tranh xâm lược”.
Trong lịch sử Việt Nam, có nhiều triều đại, nhiều tay sai cho ngoại bang đã bị xem là “ngụy”. Khi nhà Minh chiếm đóng Việt Nam, một số quan lại người Việt ra cộng tác với quân Minh. Những quan lại này bị nhà Hậu Trần và các triều đại sau gọi là "ngụy quan". Nhà Mạc bị các sử gia nhà Lê Trung Hưng gọi là "ngụy Mạc" vì đã soán ngôi vua Lê,… Quay một chút về lịch sử, từ khi Thực dân Pháp đổ quân vào xâm lược Việt Nam rồi sau đó thiết lập bộ máy cai trị thì trên danh nghĩa Triều Nguyễn chỉ còn mang tính chất tượng trưng, thực sự quyền lực cai trị đất nước ta cũng như toàn bán đảo Đông Dương là do người Pháp áp đặt với mỹ từ “bảo hộ” “khai hóa văn minh”. Trong chiến tranh thế giới thứ II, nước Pháp bị phát-xít Đức chiếm đóng; tại Đông Dương, Pháp hèn nhát thực hiện các yêu sách của Đế quốc Nhật Bản rồi cuối cùng là dâng cả Đông Dương cho Nhật Bản. Ngày 09/3/1945, quân phát-xít Nhật tiến hành đảo chính quân sự lật đổ và thủ tiêu quyền lực của thực dân Pháp, trở thành chủ thể quyền lực chính trị tối cao, chủ chốt nhất ở Đông Dương. Với chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta"Việt Minh đã quyết định phát động Nhân dân khởi nghĩa tại các tỉnh miền Bắc, miền Trung như Thanh Hóa, Thái Bình, Khánh Hòa,... cướp chính quyền từ tay Phát-xít Nhật, buộc Đế quốc Việt Nam (tên gọi chính thức và cũng là cuối cùng của Triều Nguyễn do Bảo Đại làm hoàng đế, Trần Trọng Kim là thủ tướng và được Đế quốc Nhật Bản “bảo hộ”) giao chính quyền cho Nhân dân. Ngày 30/8/1945, vua Bảo Đại trao ấn kiếm, quốc bảo của hoàng triều (những vật mang tính tượng trưng cho quyền lực Triều đại phong kiến) cho đại diện của Việt Minh và đọc chiếu thoái vị. Trong chiếu thoái vị của Bảo Đại - vị vua cuối cùng của nền phong kiến Việt Nam có viết: “Trẫm cũng quả-quyết thoái-vị nhường quyền điều-khiển quốc-dân cho Chính-phủ Dân-Chủ Cộng-Hoà”, “Trẫm mong tất cả các đảng phái, các giai-từng xã-hội, các người trong Hoàng Tộc nên hợp nhất ủng-hộ triệt-để Chính-phủ Dân-chủ để giữ vững nền Độc-Lập nước nhà”, “Việt-Nam Độc-Lập muôn năm! Dân-Chủ Cộng-Hoà muôn năm!”
  
“NGỤY” - BẢN CHẤT VÀ TÊN GỌI
Ấn kiếm Triều Nguyễn được trao lại cho Việt Minh trong lễ thoái vị của vua Bảo Đại
Ngày 02/9/1945, sau khi Cách mạng tháng Tám do Việt Minh lãnh đạo thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập chính thức khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tôi trình bày khá dông dài về vấn đề lịch sử để kết luận rằng Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là chính thống, có sự kế thừa và chuyển giao quyền lực của chế độ trước. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Nhà nước có chủ quyền trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, sự ra đời hoàn toàn hợp pháp, được dựng lên bằng sức mạnh của quần chúng Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Việt Minh. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngay từ khi ra đời đã khẳng định là một quốc gia độc lập và sự thật là một quốc gia độc lập theo Luật Quốc tế. Ngay sau đó Nhà nước đã tiến hành tổng tuyển cử đầu tiên (ngày 06/01/1946) bầu ra Quốc hội, lập Hiến và lập pháp. Do vậy, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn thể nhân dân Việt Nam được thành lập thông qua con đường bầu cử.
Thực dân Pháp bám theo gót quân Anh vào miền Nam để giải giáp, tước vũ khí quân phát-xít Nhật. Thực dân Pháp nhanh chóng thực hiện ý đồ khôi phục lại sự cai trị của Pháp ở toàn cõi Đông Dương để vơ vét nhằm phục hồi lại “mẫu quốc” chịu tổn thất nặng nề sau thế chiến. Ngày 07/12/1947, cựu hoàng Bảo Đại ký kết với Thực dân Pháp Hiệp ước Sơ bộ Vịnh Hạ Long để thành lập ra cái gọi là “Quốc gia Việt Nam” thuộc “Liên bang Đông Dương” nằm trong Liên hiệp Pháp. Pháp công nhận nền “độc lập” của “Quốc gia Việt Nam” trong Liên hiệp Pháp. Một nền “độc lập” quái gở, “độc lập” mà lại chỉ trong những thuộc địa của mẫu quốc. Mục đích chính của thực dân Pháp là  “Da vàng hóa chiến tranh” (thay màu da trên các xác chết), "Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt". Như vậy, cái gọi là “Quốc gia Việt Nam” là chính quyền bản xứ do thế lực nước ngoài dựng lên không qua bầu cử và làm công cụ cho chính sách xâm lược của ngoại bang. Theo định nghĩa, thì cái gọi là “Quốc gia Việt Nam” là một ngụy quyền.
Đi kèm với nó là “Vệ binh Quốc gia” sau đó là “Vệ binh Quốc gia Việt Nam” và được cải danh lại là “Quân đội Quốc gia Việt Nam”. Cái gọi là “Quân đội Quốc gia Việt Nam” là lực lượng vũ trang của Quốc gia Việt Nam, là một phần của Quân đội Liên hiệp Pháp, được sự bảo trợ tài chính và chỉ huy từ Liên hiệp Pháp, tồn tại từ 1950 đến 1955. Mục đích tồn lại của cái quân đội này là phụng sự lợi ích mẫu quốc, đàn áp lại chính đồng bào của mình. Nhưng lại một sự trớ trêu, số sĩ quan người Việt lại rất ít, chủ yếu là binh lính hoặc nếu là sĩ quan thì cũng chỉ đảm nhiệm những chức vụ hạ cấp, còn các chức vụ chỉ huy đều do sĩ quan người Pháp nắm giữ.


“NGỤY” - BẢN CHẤT VÀ TÊN GỌI
Lính quốc gia Việt Nam làm lễ chào cờ Quốc gia Việt Nam và mẫu quốc Pháp tại Bắc Ninh

Trong khi chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam đang “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt” anh dũng chiến đấu và hy sinh để đánh bại thực dân Pháp tại Điện Biên Phủ, cũng như đánh bại chủ nghĩa thực dân kiểu cũ thì mỉa mai thay sĩ quan, binh lính của đội quân gọi là “Quân đội quốc gia Việt Nam” lại đang chiến đấu cho mẫu quốc Pháp, bảo vệ nền cai trị của thực dân Pháp. Như vậy, điều rõ ràng nhận thấy cái gọi là “Quân đội quốc gia Việt Nam” của Chính quyền “Quốc gia Việt Nam” là ngụy quân. (Để tránh nhầm lẫn, xin giải thích danh xưng của Quân đội nhân dân Việt Nam từ năm 1946 đến năm 1950 cũng có tên là Quân đội quốc gia Việt Nam nhưng của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa quản lý).
Tôi trình bày theo trình tự lịch sử, nguyên nhân ra đời và mục đích tồn tại của cái gọi là “Quốc gia Việt Nam” và cái quân đội của nó là “Quân đội quốc gia Việt Nam” để chứng minh theo đúng khái niệm đó là ngụy quyền và ngụy quân.
Sau thất bại tại Điện Biên Phủ, buộc Pháp phải ký kết Hiệp định Genève 1954, các nước tham dự hội nghị cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia, không can thiệp vào công việc nội bộ 3 nước. Sông Bến Hải, vĩ tuyến 17, được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập kết quân sự tạm thời. Quân đội Nhân dân Việt Nam tập trung về phía Bắc; Quân đội Liên hiệp Pháp (bao gồm cả Quân đội Quốc gia Việt Nam) tập trung về phía Nam, tập kết chính trị tại chỗ, tập kết dân sự theo nguyên tắc tự nguyện. Khoản a, điều 14 ghi rõ: "Trong khi đợi tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam, bên nào có quân đội của mình tập hợp ở vùng nào theo quy định của Hiệp định này thì bên ấy sẽ phụ trách quản lý hành chính ở vùng ấy". Điều 6 Bản Tuyên bố chung ghi rõ: "Đường ranh giới quân sự tạm thời này không thể diễn giải bằng bất cứ cách nào rằng đó là một biên giới phân định về chính trị hay lãnh thổ."Quân đội Pháp dần dần rút khỏi miền Nam trong 2 năm và trao quyền lực cho Chính quyền thống nhất, hòa hợp dân tộc của Việt Nam. Như vậy, ranh giới phi quân sự (DMZ) chỉ là ranh giới tạm thời không phải biên giới và hai miền Nam - Bắc sẽ thống nhất sau 2 năm bằng con đường Tổng tuyển cử.
Năm 1955, Ngô Đình Diệm được Bảo Đại chỉ định là Thủ tướng cho cái gọi là “Quốc gia Việt Nam”; lúc này người Mỹ đã nhảy vào hất cẳng Pháp. Mỹ thay thế vai trò của Pháp trong việc dung dưỡng và hỗ trợ cho “Quốc gia Việt Nam” những người thân Pháp trong ngụy quyền và ngụy quân được thay dần bằng những người có tư tưởng thân Mỹ và Mỹ trở thành chủ mới của ngụy quân, ngụy quyền. Tổng thống Mỹ Eisenhower được báo cáo rằng khoảng 80% dân số Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu cuộc tổng tuyển cử được thi hành. Năm 1956, Allen Dulles - người đứng đầu CIA đệ trình lên Tổng thống Mỹ Eisenhower báo cáo tiên đoán nếu bầu cử diễn ra thì "thắng lợi của Hồ Chí Minh sẽ như nước triều dâng không thể cản nổi. Ngô Đình Diệm chỉ có một lối thoát là tuyên bố không thi hành Hiệp định Genève.” Được Mỹ khuyến khích, Ngô Đình Diệm kiên quyết từ chối tuyển cử. Mỹ muốn có một chính phủ chống Cộng tồn tại ở miền Nam Việt Nam, bất kể chính phủ đó có tôn trọng nền dân chủ hay không. Mỹ bắt đầu can thiệp vào Việt Nam với học thuyết Domino, “đắp con đê ngăn làn sóng đỏ” ở Việt Nam. Và mới đây trong bộ phim tài liệu “The Vietnam war” (dài 10 tập được PBS phát hành dựa trên những tài liệu được giải mật của phía Mỹ) đã cho rằng lý do để Mỹ can thiệp vào Việt Nam là vô lý và mơ hồ, đó là một cuộc chiến phi nghĩa. Được sự chống lưng của Mỹ, Ngô Đình Diệm đã đi một nước cờ chính trị quá thô thiển để phá hoại Hiệp định cũng như xóa bỏ vai trò bù nhìn của Quốc trưởng Bảo Đại vốn được Pháp dung dưỡng. Ông Diệm tổ chức một cuộc Trưng cầu dân ý gian lận nhằm “truất phế Bảo Đại suy tôn Ngô Đình Diệm”. Với sự đạo diễn của CIA, Trò hề trưng cầu dân ý 1955 thực chất chỉ là một cuộc đảo chánh không tiếng súng. Đại tá CIA Edward Lansdale, cố vấn cho Ngô Đình Diệm nói rằng: "Trong lúc tôi đi vắng, tôi không muốn bỗng nhiên nhận được tin rằng ông thắng 99,99%. Vì nếu như thế thì họ sẽ biết đó là âm mưu sắp đặt trước". Vì thế cho nên Diệm đắc cử với 98,2% trên tổng số xấp xỉ 5,8 triệu phiếu bầu (chi tiết này được nhiều hồi ký của tướng, tá Sài Gòn thuật lại). Sự thô thiển ở đây là con số 99,99% và 98,2% ý nghĩa của nó gần như nhau vì đều thể hiện “đó là âm mưu sắp đặt trước”. Sau đó, Diệm trở thành Tổng thống của cái gọi là “Việt Nam cộng hòa”. Như vậy, “Việt Nam cộng hòa” chỉ là sự cải danh của “Quốc gia Việt Nam” bình mới rượu cũ, thay chủ mới… và vẫn là như vậy. Mà cái chế độ trước đó vốn đã là ngụy quyền thì cái chế độ kế thừa bằng một trò gian lận thì tất nhiên cũng là ngụy quyền. Sau này, đến thời “đệ nhị cộng hòa” của cái chế độ “Việt Nam cộng hòa” cũng được Nguyễn Văn Thiệu vận dụng CIA để đạo diễn lên các màn bầu cử gian lận và dùng quyền lực thay đổi luật để ngăn cả các đối thủ được tham gia ứng cử. Những chi tiết về sự gian lận của Thiệu được nhắc tới rất nhiều trong các tài liệu được Mỹ giải mật và được nhắc nhiều trong hồi ký của các tướng lĩnh Sài Gòn trong đó có cả cựu thù của Thiệu là Nguyễn Cao Kỳ (trong cuốn hồi ký có tên “How we lost the Vietnam War” - Chúng ta đã thua ở Việt Nam như thế nào). Tái khẳng định một lần nữa, cái kế thừa “Quốc gia Việt Nam” là “Việt Nam cộng hòa”, kể cả “đệ nhất” lẫn “đệ nhị” bản chất cũng vẫn là ngụy quyền.
  
“NGỤY” - BẢN CHẤT VÀ TÊN GỌI
Người biểu tình phản chiến Mỹ với sự châm biếm "Đế quốc Mỹ và Con rối Sài Gòn (Saigon Puppet)"
Khi Diệm bằng thủ đoạn nêu trên lên làm Tổng thống của cái gọi là “Việt Nam cộng hòa” thì “Quân đội quốc gia” được cải danh lại thành “Quân đội Việt Nam cộng hòa”. Ngày 01/11/1963, được Mỹ bật đèn xanh, các tướng lĩnh của cái quân đội ấy cầm đầu là Dương Văn Minh tiến hành đảo chánh, lật đổ và hành quyết ông Tổng tư lệnh tối cao của chính quân đội ấy - Ngô Đình Diệm. Sau đó, “Quân đội Việt Nam cộng hòa” lại được cải danh thành “Quân lực Việt Nam cộng hòa” (mà theo tôi thì phải là “Quân lực Việt Nam cộng trừ” mới đúng; trừ ở đây là trừ khử nhau, nhưng xin đi sâu vào vấn đề này trong một bài viết khác). Mỹ đã chứng tỏ Mỹ mới là chủ thực sự của chế độ ngụy quyền Sài Gòn. Đến độ, Tổng thống Mỹ Nixon nói với Ngoại trưởng Mỹ Kissinger về Tổng thống, Tổng tư lệnh tối cao của Quân lực Việt Nam Cộng hòa - Nguyễn Văn Thiệu rằng "Không thể để có cái đuôi chó phản lại cái đầu con chó được”. Như vậy, sự kế thừa có tính truyền thống dù có thay đổi tên gọi thế nào thì “Quân lực Việt Nam cộng hòa” cũng vẫn là ngụy quân. Và để toát lên được cái bản chất ngụy quân, bản chất đánh thuê và tay sai cho Mỹ hãy nghe những người trong chính đội quân ấy nói về nó như thế nào.
“Mỹ luôn luôn đứng ra trước sân khấu, làm "kép nhất". Vì vậy ai cũng cho rằng đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ và chúng tôi là những lính đánh thuê. Tôi biết rất rõ ràng về cái gọi là những người chỉ huy, những ông tướng lĩnh miền Nam khi ấy. Từ ông Thiệu đến những ông khác dưới trướng, xin lỗi, toàn là những vị ăn chơi phè phỡn, tài không có mà đức cũng không. Trước đây có "ông" Mỹ đứng sau thì không có chuyện gì, nhưng khi phải một mình trực tiếp đối diện với khó khăn thì bản chất cũng như tài năng lộ ra ngay. Trong một cuộc chiến, nói gì thì nói, theo tôi quan trọng nhất vẫn là Lực lượng, là Quân đội. Quân đội Nam Việt Nam, không có ai đáng giá cả, kể từ ông Nguyễn Văn Thiệu - Tổng thống kiêm Tổng tư lệnh - trở xuống. Trong số những vị cùng vai vế với tôi, cứ mười ông thì đến mười một ông tham sống sợ chết! Trong khi đó, miền Bắc các chỉ huy lại có rất nhiều kinh nghiệm chiến trường, được cấp dưới tin cậy và kính trọng về nhân cách, đó là sự hơn hẳn.” (Nguyễn Cao Kỳ - Phó Tổng thống, Thủ tướng ngụy quyền Sài Gòn, Thiếu tướng Tư lệnh Không lực ngụy quân).
"Nếu Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau ba giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập" "Mỹ còn viện trợ, thì chúng ta còn chống Cộng" (Nguyễn Văn Thiệu - Tổng thống ngụy quyền, Trung tướng ngụy quân Sài Gòn).
"Tôi cảm ơn thiện chí của ông, nhưng trong đời tôi, tôi đã từng làm tay sai cho Pháp, rồi tay sai cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Trung Quốc” (Dương Văn Minh - Tổng thống cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn, Đại tướng Tổng tư lệnh ngụy quân).
“Chúng ta không có trách nhiệm về chiến tranh. Trách nhiệm về cuộc chiến ở đây là của người Mỹ. Chính sách đó do họ đề ra, chúng ta chỉ theo họ mà thôi!” (Cao Văn Viên - Đại tướng, Tổng tham mưu trưởng ngụy quân).
"Pháp đã ở Việt Nam 100 năm. Pháp đi sau Hiệp định Genève thì Mỹ lại nhảy vô. Tôi nói thật, trong tất cả các đời tổng thống Việt Nam Cộng hòa, ai mà Mỹ không ưa thì người ấy bị hất đổ ngay. Ở miền Nam này, đã xảy ra không biết bao nhiêu cuộc đảo chánh - mười mấy lần chứ có ít đâu.” (Nguyễn Hữu Hạnh - Chuẩn tướng, phụ tá Tổng tham mưu trưởng ngụy quân)
Và còn rất nhiều nữa những câu nói của chính những người giữ vai trò chủ chốt trong ngụy quân, ngụy quyền xác nhận cái bản chất của nó là do thế lực nước ngoài dựng lên, nuôi dưỡng, sử dụng làm công cụ thực hiện chính sách xâm lược, nô dịch của họ.
Nói tóm lại, sử dụng cụm từ “ngụy quyền”, “ngụy quân” để nói về các chế độ cũ và quân đội tay sai của chúng như đã nêu trên là chính xác đúng với định nghĩa, đúng với bản chất và vị trí trong lịch sử của chúng. Dùng từ “ngụy” là để chỉ đúng bản chất của một chế độ, một đội quân mại bản, nô dịch.
Vậy không dùng từ “ngụy” mà gọi là “Việt Nam cộng hòa”, “chế độ Sài Gòn”, “Quân lực Việt Nam cộng hòa”, “quân đội Sài Gòn” có được không? Tất nhiên là được. Lý do thứ nhất, đó là những danh xưng có thật trong lịch sử, gọi như vậy không có gì sai với lịch sử. Bản chất của cái chế độ chính quyền đó, của đội quân đó vẫn là ngụy, là tay sai cho ngoại bang, phản cách mạng, phản bội lại lợi ích quốc gia, dân tộc. Gọi như vậy không có gì là thay đổi bản chất hay xét lại lịch sử cả. Lý do thứ 2, trong các văn bản của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, văn kiện của Đảng và thậm chí các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn sử dụng những cụm từ này. Để tách bạch cần phải hiểu tên gọi sử dụng và bản chất là 2 phạm trù khác nhau. Lịch sử thì tất nhiên là phải khách quan, sử dụng những từ đó nhưng không phải là để quên đi cái bản chất của nó hay xét lại lịch sử. Sử dụng những cụm từ đó chứ có phải là cấm sử dụng từ “ngụy” đâu?  Gọi là “ngụy quân”, “ngụy quyền” là tên gọi và cũng là nói lên bản chất, điều này không ai cấm cả. Lý do thứ 3, chúng ta đang chủ trương hòa giải, hòa hợp dân tộc. Rất nhiều người lầm lỡ từng ở bên kia chiến tuyến họ cũng ở tuổi xế chiều, không có sự chống đối mà cũng có phần giác ngộ… đánh kẻ chạy đi, ai đánh kẻ chạy lại. Dùng từ “địch ngụy cũ” hay “ngụy” với họ gây mặc cảm không đáng có cho họ. Mà sự vị tha, lòng bao dung là truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam.


“NGỤY” - BẢN CHẤT VÀ TÊN GỌI
Ban Tuyên giáo Trung ương họp Hội đồng thẩm định bộ sách "Lịch sử Việt Nam" một số ý kiến được nêu.

Lý do cuối cùng, không phải sử dụng cụm từ “Việt Nam cộng hòa” là không có lợi, quay lại định nghĩa ngụy quyền thì nó cũng là một chính quyền. Khi Hiệp định Genève 1954 được ký kết thì từ dưới vĩ tuyến 17 là do “Quốc gia Việt Nam” sau này là “Việt Nam cộng hòa” quản lý bao gồm cả 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những điều này đã được quy định vào trong Hiệp định quốc tế tức nó là nguồn của Luật Quốc tế. Là một căn cứ để khẳng định chủ quyền không thể chối cãi của Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mỹ trước khi bình thường hóa quan hệ với Việt Nam đã bắt Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam thanh toán số nợ mà chế độ Việt Nam cộng hòa đang còn nợ Chính phủ Hoa Kỳ như một điều kiện để bình thường hóa quan hệ. Và tôi cũng từng đọc các tài liệu cho rằng IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế), WB (Ngân hàng thế giới) cũng làm điều tương tự với Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam. Như vậy, họ thừa nhận Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước duy nhất hợp Hiến và hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam thống nhất (Việt Nam cộng hòa đã được thống nhất vào). Những quyền và nghĩa vụ của Việt Nam cộng hòa trước đây thì bây giờ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện những quyền và nghĩa vụ đó. Hiểu nôm na là anh bắt tôi thực hiện nghĩa vụ thì anh phải tôn trọng quyền lợi của tôi. Trong đó có cả quyền về chủ quyền lãnh thổ mà đặc biệt là đối với biển đảo. Hiện chúng ta còn giữ nguyên hiện trạng những cột mốc chủ quyền của Việt Nam cộng hòa xác lập trên các đảo thuộc quần đảo Trường Sa.

“NGỤY” - BẢN CHẤT VÀ TÊN GỌI
Cột mốc của Việt Nam cộng hòa xây dựng vẫn còn ở một số đảo thuộc huyện đảo Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam

“NGỤY” - BẢN CHẤT VÀ TÊN GỌI
Cột mốc của Việt Nam cộng hòa xây dựng vẫn còn ở Quần đảo Hà Tiên (hay quần đảo Hải Tặc)

Với trình độ nhận thức còn hạn hẹp, lại không phải là một người chuyên ngành Lịch sử nhưng với nhiều sách, tài liệu đã được nghiên cứu tôi chỉ đủ khả năng trình bày một số ý kiến của mình với những gì nhận thức được. Mong qua đó, người đọc phần nào hiểu được một số vấn đề về tên gọi của các chế độ cũ, bản chất của nó và nhìn nhận lịch sử một cách trung thực, khách quan nhất.

Thủ Đức, ngày 31/3/2018
Đạt Trần
  

Thứ Tư, 28 tháng 3, 2018

BÀN VỀ BẢN CHẤT CÁC NGỤY QUÂN - NGỤY QUYỀN



Về bản chất của quân đội ngụy và ngụy quyền tay sai thì Bác Hồ đã nhiều lần đề cập trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ bằng những câu như: “Chúng dựng lên ngụy quân, ngụy quyền dùng làm công cụ phản quốc hại dân.”, “Chúng nuôi dưỡng ngụy quyền, ngụy quân làm công cụ hại dân phản nước.” v.v.
BÀN VỀ BẢN CHẤT CÁC NGỤY QUÂN - NGỤY QUYỀN

Lưu ý rằng Bác Hồ không nói những người trong hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền là những kẻ phản nước, hại dân, mà Bác nhận định họ đã bị Pháp, Mỹ sử dụng làm công cụ phản nước hại dân. Như vậy, những người tốt nhưng yếu, kém, không có thực lực, bị thời thế đẩy đưa thì vẫn có thể bị giặc lợi dụng làm công cụ hại dân, phản nước. Như vậy việc những cá nhân lính ngụy, sĩ quan ngụy tốt hay xấu, bản thân có yêu nước hay không, là việc không liên quan.

Bác Hồ nổi tiếng về khả năng có thể nói rất lâu mà không nói vấp hay nói hớ 1 chữ, nhận thức sự việc tuyệt đối chính xác, và câu “làm công cụ hại dân phản nước” của Bác cho thấy cách dùng từ của Người rất tỉ mỉ và cực kỳ chính xác.

Bác Hồ nhận định về ngụy quyền - ngụy quân như thế cũng không phải là Bác ghét bỏ, thù hận gì họ, trái lại Bác Hồ vẫn xem họ là đồng bào bình thường, chỉ vì tình thế bắt buộc, bị bắt lính, gia cảnh cơ hàn, cuộc sống khó khăn, hoặc bị giặc tẩy não, nhồi sọ v.v. thì mới đi lính cho giặc.

Trong quá khứ, Bác đã viết rất nhiều lá thơ, chuyển vào Nam và giao cho các tổ chức binh vận, ngụy vận tìm cách đưa những lá thơ này đến tay đồng bào lính ngụy trong vùng tạm chiếm: “Thư gửi các ngụy binh” (thập niên 50), “Vận động ngụy binh” (thập niên 50), “Lời kêu gọi ngụy binh quay về với Tổ quốc” (thập niên 50), “Ngụy binh giác ngộ” (thập niên 60) v.v. Đảng cũng nhiều lần ra Nghị quyết và có nhiều văn kiện yêu cầu đẩy mạnh công tác “ngụy vận”. Xem công tác ngụy vận là một phần của công tác dân vận, chứ không xem là địch, công tác ngụy vận là một phần của công tác binh vận, nhưng lại có khác biệt với công tác địch vận (nhắm vào người Pháp và người Mỹ).

Trong lịch sử thật ra chẳng có ai thật sự muốn bán nước, không có ai nghĩ rằng mình bán nước. Xưa nay chưa hề có một hợp đồng nào kiểu tôi giao cả quốc gia cho anh, anh trả cho tôi bao nhiêu tiền. “Bán nước” chỉ là một cách lên án của dân gian và sự phán xét nghiêm khắc của lịch sử và hậu thế, nhằm giáo dục con em không để lâm vào tình cảnh tương tự. Đó là thuộc văn hóa suy nghĩ, tư duy, tâm tư tình cảm của dân tộc, và đó cũng là nhân sinh quan của dân tộc Việt Nam. Chứ hoàn toàn không có hận thù gì ở đây, người Việt Nam đa số có lòng khoan dung và vị tha.

Người ta kết tội những nhân vật đứng đầu như Kiều Công Tiễn, Trần Ích Tắc, Trần Kiện, Lê Chiêu Thống, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu vào tội danh bán nước là để ghi nhận một tấm gương xấu cho hậu thế rút kinh nghiệm, mang tính chất răn đe cho con cháu đời sau. Chứ người ta không kết tội những quân nhân, tướng lĩnh, sĩ quan cấp dưới. Lịch sử kết tội Lê Chiêu Thống chứ không kết tội Lê Quýnh, Hoàng Phùng Tứ, Trần Quang Châu… Lịch sử kết tội Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu chứ không kết tội Ngô Quang Trưởng, Hoàng Xuân Lãm, Cao Văn Viên, Trần Văn Đôn…

BÀN VỀ BẢN CHẤT CÁC NGỤY QUÂN - NGỤY QUYỀN

Như vậy cách nhìn đúng đắn là: Ngụy quyền và ngụy quân đúng là do giặc dựng lên để mị dân, hợp thức hóa cuộc xâm lược và phục vụ cho cuộc xâm lược. Còn riêng những cá nhân trong bộ máy đó, nếu không còn liên quan gì nữa, không còn gây ra gì nữa, và chiến tranh đã qua lâu, xã hội ổn định, không khí thanh bình, thì nên xem họ là những người bình thường.

Lịch sử đã sang trang mới và thực tế cũng cho thấy những người lính ngụy, sĩ quan ngụy, tướng tá ngụy như các ông Trần Chung Ngọc, Nguyễn Hữu Hạnh, Dương Văn Minh, Nguyễn Cao Kỳ, Đỗ Mậu, Nguyễn Phương Hùng và nhiều người khác trong lúc này vẫn đang tôn trọng hơn những người từng là “Bộ đội cụ Hồ” mà đã thoái hóa, biến chất, đón gió trở cờ, trở thành kẻ phản bội, phản quốc như Hoàng Văn Hoan, Bùi Tín, Dương Thu Hương, Trần Anh Kim theo ngoại bang chống phá đất nước hay những kẻ tha hóa biến chất, trở thành sâu bọ tham nhũng, lũng đoạn, cắn nát đất nước và chế độ.

Tóm lại: Lịch sử thì phải nhận thức đúng. Những cá nhân trong quá khứ thì thông cảm, bỏ qua và tôn trọng như một người bình thường! Đây là cách tiếp cận hợp tình hợp lý. Chúng ta tôn trọng cá nhân các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Cao Kỳ, nhưng trong lịch sử chúng ta vẫn phải ghi nhận là hai ông từng làm tướng cho Pháp, Mỹ, trong thời Pháp thuộc hai ông có Pháp tịch, là công dân Pháp và đi lính cho Pháp, đeo huân chương Pháp, được Pháp phong chức, được Pháp rồi Mỹ trả lương. Bỏ qua, gác lại quá khứ, tha thứ... không có nghĩa là quên lãng, từ bỏ. Khép lại quá khứ không có nghĩa là đóng lại, khóa lại quá khứ. Lịch sử và các tiểu sử, trong đó có những giai đoạn lầm lạc của một số nhân vật nên được ghi nhận chính xác. Xem như đó là một bài học lịch sử để răn dạy con cháu đời sau.

Lịch sử luôn được người Việt hàng nghìn năm nay sử dụng như một phương tiện để đề cao, ca ngợi những tấm gương tiết liệt, làm tấm gương sáng cho hậu thế và răn đe những gương xấu phản dân hại nước, rước giặc vào nhà.

Đó là một cách thức truyền lửa của dân ta nghìn năm nay từ thời mở nước và trong suốt những thời kỳ giữ nước, đời này noi theo gương tốt của đời nọ, thế hệ trước truyền lại ngọn đuốc cho thế hệ sau. Đánh giặc là đúng, chống ngoại xâm là đúng, theo giặc là sai, bán nước là sai. Với tinh thần “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Bất cứ ai “rước voi về giày mả tổ”, “cõng rắn cắn gà nhà” đều bị lịch sử chê trách, lên án.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, những cuộc đụng độ xảy ra giữa quân Việt Nam và quân ngụy là vì lính ngụy bị giặc Mỹ đẩy ra đánh thay họ, chết thay họ, tránh thương vong cho quân đội của họ. Việt Nam chỉ đánh giặc xâm lược Mỹ, không coi ngụy là một nước, không công nhận cái gọi là “nước Việt Nam Cộng hòa” và chưa bao giờ tuyên bố chiến tranh với ngụy; Việt Nam chỉ tiến hành chiến tranh với Mỹ. Đây là cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước chứ không phải là “chống ngụy cứu nước”.

Việt Nam muốn kết thúc chiến tranh thì phải đánh thắng Mỹ, muốn giải quyết chiến tranh thì phải nói chuyện với Mỹ, với người chủ. Trong suốt cuộc chiến này, VN không chú trọng đánh ngụy và chỉ chú trọng đánh Mỹ với cả 3 mũi giáp công: Chính trị, quân sự, ngoại giao. Vì ta biết rõ dù có diệt được ngụy mà Mỹ vẫn còn đó thì họ chỉ việc dựng lên một ngụy quyền khác và bắt thanh niên miền Nam đi lính bằng các đợt cưỡng bách quân dịch quy mô. Không đánh bại được Mỹ thì không diệt được ngụy, chém đầu này sẽ mọc đầu khác. Không thắng được ông chủ thì ông chủ chỉ việc tuyển dụng và đưa lên những tay sai mới. Cho nên muốn chấm dứt chiến tranh thì phải đánh thẳng vào cái gốc, cái rễ, cái nguồn gốc chiến tranh, cái nguồn gây ra chiến tranh, cái nguồn đang tiến hành xâm lược, cái cỗ máy chiến tranh đang điều hành cuộc chiến. Đánh cho “Mỹ cút” rồi mới đến “ngụy nhào” như câu thơ chúc Tết mà Bác Hồ tặng miền Nam đã nói. Bác đã tài tình lồng vào 2 giai đoạn chiến lược “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” vào câu thơ của mình ngay trong lúc Mỹ đang mạnh, chưa cút và ngụy chưa nhào.

Việt Nam cũng chưa bao giờ đàm phán, nói chuyện với ngụy, vì biết có nói chuyện với ngụy thì cũng vô ích, không giải quyết được gì. Việt Nam muốn gì thì tìm Mỹ mà nói, mà đối thoại, mặc cả, giao dịch, trao đổi v.v. Mục tiêu của cuộc kháng chiến là: Quét sạch tên giặc xâm lược cuối cùng và tất cả các ngụy quyền của giặc xâm lược ra khỏi miền Nam của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà quân đội Mỹ đang chiếm đóng bất hợp pháp (Miền Nam của Việt Nam DCCH quy định rõ ràng trong hiến pháp 1946, 12 khu hành chính và quân sự tháng 11/1946, bao gồm cả miền Nam Việt Nam, Hiệp định Genève về Đông Dương, Hiến pháp 1959).

Nhìn chung thì cả trong nước và nước ngoài đều không để ý nhiều đến vai trò của ngụy quyền trong cuộc chiến Việt - Mỹ. Người ta đề cập nhiều đến vai trò của Hà Nội và Washington nhiều hơn. Lý do rất đơn giản là vì đây là cuộc đụng độ lịch sử giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, một bên có sức mạnh con người, một bên có sức mạnh khoa học công nghệ. Họ mới là hai nhân vật chính cần đề cập tới. Ngụy Sài Gòn có vai trò mờ nhạt và lãng nhách, không đáng phải đề cập và vì thế người ta thấy không cần nhắc nhiều đến.

Nhìn lại thì thấy quả thật là vai trò của chế độ Sài Gòn, quân đội Sài Gòn rất mờ nhạt trên các phương tiện truyền thông quốc tế. Các tài liệu đa chiều trên thế giới rất ít nói về ngụy Sài Gòn. Họ chú trọng đến vai trò của Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (họ gọi là “Việt Cộng”) và phía bên kia là Hoa Kỳ. Không có nhà nghiên cứu, nhà sử học, nhà báo nào tốn nhiều giấy mực, thời gian, công sức để viết về những chư hầu của Mỹ.

Trong lịch sử ngàn năm của dân tộc Việt Nam, giặc ngoại xâm nào vào bờ cõi nước Việt thì cũng tạo ra một đội quân người bản xứ để cho quân ngoại xâm đỡ tốn xương máu, đỡ hao binh tổn tướng. Trong chiến tranh chống Việt Nam cũng vậy, lính Pháp, lính Mỹ đáng lẽ còn hao tổn hơn nhiều nếu không nhờ lực lượng ngụy quân đỡ đạn cho lính Pháp, lính Mỹ, giúp quân đội Pháp - Mỹ giảm thương vong.

Vì sao cuộc chiến chống Mỹ dễ xuyên tạc hơn các cuộc chiến chống xâm lược khác trong Việt sử?

Về kháng chiến chống Pháp, ngoài ông Nguyễn Gia Kiểng (chủ tịch của tổ chức “Tập hợp Dân chủ Đa nguyên”, tai tiếng với cuốn sách “Tổ quốc Ăn năn” chê bai Bác Hồ, vua Quang Trung, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi và nhiều anh hùng dân tộc khác của VN) gọi kháng chiến chống Pháp là cuộc “nội chiến” (giữa Việt Minh và “Quốc gia”) ra thì hầu hết đều thống nhất rằng đây là cuộc chiến chống ngoại xâm của dân tộc. Ngay cả những kẻ chống Cộng cực đoan cũng không thể phủ nhận nổi điều này, ngay cả sách giáo khoa ở miền Nam dưới thời Mỹ cũng phải ghi đây là cuộc chiến giữa “nhân dân Việt Nam” và thực dân Pháp (lờ đi vai trò lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ Tịch). Sở dĩ kháng chiến chống Pháp khó xuyên tạc là vì thực dân Pháp đã đô hộ, bóc lột, nô dịch dân ta trong suốt gần một thế kỷ Pháp thuộc và khái niệm “trăm năm nô lệ giặc Tây” đã in ấn sâu đậm, khắc cốt ghi tâm trong lòng dân chúng.

Còn kháng chiến chống Mỹ dễ xuyên tạc hơn, do nó là cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới, trong thời đại mới, thông qua ngụy quyền mà nó dựng lên để kiểm soát miền Nam Việt Nam, khống chế khu vực và chiếm đoạt tài nguyên, trên danh nghĩa “tham chiến giúp đỡ đồng minh”. Chứ trên danh nghĩa họ không trực tiếp trắng trợn gọi miền Nam Việt Nam là thuộc địa như thực dân Pháp trong thời Pháp thuộc và cũng không chính thức sát nhập miền Nam Việt Nam vào lãnh thổ chính quốc như phong kiến Trung Hoa trong thời Bắc thuộc.

Đây là một hình thức xâm lược “văn minh” và ma giáo. Dân ta lại chưa kinh qua cuộc xâm lược kiểu này trong lịch sử và trước đó Mỹ cũng chưa xâm lược, chiếm đóng, đô hộ nước ta với hình thức như thực dân Pháp đã làm trong thời Pháp thuộc. Cái gì mà mới mẻ, chưa có kinh nghiệm cho nó thì thường dễ gây nhiễu nhân tâm hơn.

Đó cũng là lý do vì sao mà trong thời Pháp thuộc suốt gần 100 năm, Việt Nam lại có nhiều Việt gian cam tâm làm tay sai đắc lực cho Pháp đến như vậy, nhiều hơn gấp trăm lần so với các cuộc chiến chống xâm lược phương Bắc. Đó là vì hình thức xâm lược của thực dân Pháp khác với hình thức xâm lược, đô hộ kiểu cũ của phong kiến Trung Hoa. Pháp không chính thức sát nhập Đại Nam vào lãnh thổ Pháp, mà sử dụng Đại Nam làm một thuộc địa (colony), làm một nơi để khai thác, vơ vét, bóc lột, trên danh nghĩa “bảo hộ” triều đình An Nam, An Nam vẫn có vua, nhà Nguyễn vẫn còn đó. Trước thời Pháp thuộc thì dân ta lại chưa kinh qua cách thức xâm lược và đô hộ như thế này, nên cũng có nhiều người mơ hồ về việc Pháp xâm lược Đại Nam, họ coi mình là đang phục vụ triều đình, chỉ huy lính Nam triều, chứ không nghĩ mình đang phục vụ cho Pháp; họ cho rằng Pháp đã đem ánh sáng văn minh phương Tây vào Đại Nam, giúp khai hóa dân tộc Việt, giúp Đại Nam có tự do tôn giáo, tự do truyền đạo, bảo hộ và giúp đỡ triều đình và đất nước ta, giúp người Việt chống Trung Hoa (quân Thanh, quân Cờ Đen, quân Cờ Vàng, quân Cờ Trắng v.v.), họ tự lừa dối bản thân, họ cố nghĩ như vậy, nhiều khi cũng chỉ để cho lương tâm không bị cắn rứt, tự an ủi bản thân, tương tự như nhiều người trong thời Mỹ sau này.

Trong lịch sử các nước, phía xâm lược luôn có những chiêu bài chính trị để hợp thức hóa hành động xâm lược, xâm phạm chủ quyền. Chiêu thức dựng lên một “đối tượng để giúp đỡ” là chiêu đã được dùng đi dùng lại từ ngàn xưa. Như nhà Minh “phù Trần diệt Hồ”. Như Mông Cổ “giúp” Trần Ích Tắc làm vua. Quân đội Mãn Thanh “giúp” Lê Chiêu Thống khôi phục cơ nghiệp tổ tông và chống “giặc Tây Sơn” v.v. Nó luôn lặp lại với những hình thức khác nhau, nhưng bản chất thì vẫn vậy, “bình mới rượu cũ”.

Trong lịch sử Việt Nam, mỗi thời kỳ giặc xâm lược đều có những hình thức xâm lược khác nhau và ngày càng tinh vi hơn. Mục tiêu xâm lược cũng có những khác biệt nhất định. Phong kiến Trung Hoa xâm lược Đại Việt, chiếm đất đai, sát nhập lãnh thổ Đại Việt vào Trung Hoa, biến đất Việt thành đất Trung Hoa, biến Đại Việt thành một quận, huyện của họ. Và trong thời gian đô hộ thì không tồn tại triều đình người Việt.

Pháp bắt đầu xâm lược Đại Nam năm 1858, ép nhà Nguyễn ký hiệp ước dâng lên Nam Kỳ Lục tỉnh rồi lần lượt “bảo hộ” Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Họ chiếm hữu và trục lợi ở Việt Nam và Đông Dương như một thuộc địa, nhưng trên danh nghĩa thì vẫn có vương quốc An Nam “độc lập”. Vẫn có triều đình Huế với các “hoàng đế” có ngai nhưng không quyền. Họ trực tiếp quản lý Việt Nam bằng Toàn quyền Đông Dương và dưới trướng có rất nhiều cộng sự người Việt mà dân gian gọi là “chó săn” của Pháp. Họ thiết lập một hệ thống ngụy quyền quy mô, rộng lớn, bao gồm những lực lượng ngụy quân (lính Nam triều, lính khố xanh, khố đỏ, khố vàng) được huấn luyện chu đáo và chuyên nghiệp.

Cho thấy rằng Pháp cũng xâm lược, nhưng hình thức xâm lược, hình thức chiếm đóng, hình thức trục lợi là khác với phong kiến Trung Hoa. Pháp không chủ trương sát nhập Đông Dương vào “nước mẹ Đại Pháp”, mà chỉ muốn xơ múi, khai thác, bóc lột, vơ vét những lợi ích tài nguyên màu mỡ, những nguồn nhân lực, nô lệ, lao công phong phú ở đây. Tóm lại là hút cạn kiệt thuộc địa để làm giàu cho mẫu quốc.

Pháp không cần Việt Nam thành một phần của nước Pháp. Không coi Đông Dương là nước Pháp, mà họ coi Đông Dương và Việt Nam là một vùng thuộc địa (colony) để họ khai thác, họ coi họ là “nước mẹ” của thuộc địa này. Ngụy triều của người Việt được phép tồn tại và làm vật trang trí. Ngụy quân người Việt được xây dựng, trang bị, huấn luyện và trả lương. Đây gọi là chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, khi mà tên giặc không cần sát nhập lãnh thổ, cướp đất đai trên danh nghĩa, thay vào đó, họ mị dân bằng những tuyên bố “bảo hộ” sự “độc lập” của vương quốc An Nam trên danh nghĩa. Họ cho người Pháp vào trực tiếp quản lý, trực tiếp nắm lấy. Và các cộng sự người Việt chỉ là loại thừa hành cấp thấp. Người Pháp chỉ việc tha hồ bóc lột và nô dịch nhân dân bản xứ.

Hoa Kỳ viện trợ và giúp đỡ Pháp tái chiếm Việt Nam thất bại, sau đó trực tiếp nhảy vào rồi từng bước hất cẳng Pháp, thu nhận và nuôi dưỡng ngụy quyền và ngụy quân mà Pháp đã sử dụng và để lại. Thay tên đổi họ lại cho ngụy quân, ngụy quyền, tổ chức lại, xây dựng lại, vá lại, thay đổi tay sai, chỉ giữ “quốc kỳ” và “quốc ca”.

Cách thức xâm lược của giặc ngoại xâm theo tiến trình lịch sử, theo sự tiến hóa của văn minh nhân loại, cũng thay đổi và “nâng cấp” theo thời gian, càng lúc càng mị dân và được ngụy trang tinh vi hơn.

Mỹ xâm lược Việt Nam là xâm lược kiểu thực dân mới. Theo đó, ông chủ đứng ngoài thu lợi, quan sát, kiểm soát. Còn phần quản lý thuộc trách nhiệm của ngụy quyền bản địa, chứ giặc xâm lược không trực tiếp bắt tay vào làm như thực dân cũ. Tương tự như người đạo diễn đứng ngoài điều khiển, chỉ đạo, các diễn viên cứ thế mà diễn tuồng, đóng kịch. Đến khi diễn viên bất tài vô dụng quá mức, không đảm đương nổi vai diễn, vai trò, thì có khi đạo diễn phải nhảy ra sân khấu làm kép chính luôn, và 58 vạn quân Mỹ, trong giai đoạn 1964 - 1973, đã tiến vào tham chiến trực tiếp như bọn thực dân cũ, như xâm lăng thời phong kiến.

Do đó nếu chỉ nhìn các cuộc chiến tranh trong lịch sử hiện đại và ngày nay bằng cặp mắt phong kiến lạc hậu, chỉ biết đến các hình thức xâm lược của phong kiến từ xa xưa mấy ngàn năm trước, cứ phải có cùng một hình thức thủ đoạn chính trị, quân sự đó thì mới là xâm lược, thì thật là thiếu sót, lạc hậu, kém cập nhật.

“Thắng làm vua, thua làm giặc”?

Một luận điệu lệch lạc, phi thực tế thường xuất hiện sau ngày Việt Nam chiến thắng: “Được làm vua, thua làm giặc”, “lý lẽ và chân lý thuộc về kẻ chiến thắng”. Hai câu này đã có từ lâu và cũng đúng phần nào, tuy nhiên, những kẻ phản động đã lấy 2 câu này của người xưa rồi gán ghép bừa bãi và dùng những câu này để bóp méo bản chất của kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của Việt Nam.

Thực tế mà nói, hai câu trên không tuyệt đối đúng: Triệu Đà chiến thắng và có tuyên truyền thế nào thì An Dương Vương cũng không phải là giặc. Phong kiến Trung Hoa chiến thắng và có tuyên truyền đến thế nào thì Trưng Vương, Bà Triệu, Phùng Hưng, Mai Hắc Đế, Lý Nam Đế cũng không là giặc. Lý Phật Tử đã chiến thắng nhưng Triệu Việt Vương cũng vẫn không phải là giặc. Nhà Minh chiến thắng và có tuyên truyền đến mức nào thì Hồ Quý Ly, Trần Giản Định, Trần Trùng Quang cũng không phải là giặc. Nhà Nguyễn chiến thắng và có tuyên truyền đến mức nào suốt hơn 100 năm thì người dân vẫn xem nhà Tây Sơn là anh hùng, không phải là giặc. Thực dân Pháp và bọn phản động trong thời Pháp thuộc dù có tuyên truyền đến thế nào thì các nghĩa quân cũng không phải là “giặc phiến loạn”.

Giặc Pháp, giặc Mỹ và tay sai trong suốt hơn 30 năm chiến tranh, thắng bao nhiêu lần, nhưng dù có tuyên truyền đến mức độ nào thì cũng không biến được cuộc kháng chiến chống Mỹ thành cuộc “nội chiến”, “ý thức hệ”, “cuộc chiến quốc tế”, “cuộc chiến ủy nhiệm”. Thực tế lịch sử đã cho thấy: Chân lý không phải lúc nào cũng thuộc về kẻ chiến thắng, mà thuộc về nhân dân, thuộc về chính nghĩa dân tộc.

Chân lý chỉ thuộc về kẻ chiến thắng với điều kiện kẻ chiến thắng đó chính là nhân dân, là dân tộc, và lực lượng quân sự, chính trị mà dân tộc đó, nhân dân đó ủng hộ. Thực tế lịch sử khách quan thì không thể phủ nhận được.

Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Triệu Quang Phục, 11 sứ quân, nhà Hồ, nhà Hậu Trần, nhà Mạc, chúa Nguyễn, chúa Trịnh v.v. đều đã thua nhưng dân tộc Việt Nam không coi họ là giặc, là ngụy.

Còn các triều đình Huế thời Pháp thuộc, ngụy quyền Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu v.v. thì dân ta đã gọi họ là ngụy, là giặc ngay trong lúc chưa chiến thắng, ngay trong lúc giặc chưa thua. Trước 1975, khi Mỹ - Việt chưa biết ai thắng ai thua thì dân miền Nam đã gọi ngụy quyền là “ngụy” rồi.

Quan niệm “thắng làm vua, thua làm giặc” cũng không phải lúc nào, thời nào cũng đúng với thực tế, đúng với lịch sử. Quan điểm này chỉ đúng trong những cuộc chiến nội bộ trong thời phong kiến. Trong lịch sử nước ta, giặc Đông Hán, giặc Minh, giặc Pháp từng chiến thắng nhưng họ vẫn mãi là giặc. Họ vẫn là giặc khi bắt đầu cuộc chiến, trong cuộc chiến và sau cuộc chiến, dù thời điểm nào thì vẫn đều là giặc.

Giặc là giặc, ngụy là ngụy, chính là chính, tà là tà, chính nghĩa là chính nghĩa, phi nghĩa là phi nghĩa, tự vệ là tự vệ, xâm lược là xâm lược, nội chiến là nội chiến, chống ngoại xâm là chống ngoại xâm. Những điều này không phụ thuộc vào sự duy ý chí của con người, cảm tính, cảm nghĩ của cá nhân, niềm tin cá nhân của con người, mà nó phụ thuộc vào thực tế lịch sử khách quan và bản chất của các đối tượng tranh đấu trong cuộc chiến đó. Bạn có nghĩ, tin, tuyên truyền cá đi trên bờ thì con cá vẫn lội dưới nước.

Dĩ nhiên trong trường hợp khoa học lịch sử, thì gọi thế nào ít nhiều có phụ thuộc phần nào đó vào góc độ lợi ích của quốc gia dân tộc liên quan, trong trường hợp của Đại Việt - Việt Nam nghìn năm nay thì đều có những tiêu chí rất rõ ràng, khó nhầm lẫn, để đánh giá, nhận định ai là giặc, ai là ngụy. Không thể chỉ vin vào kết quả thắng - thua hay thực lực yếu - mạnh rồi đánh đồng tất cả, đánh tráo khái niệm, cào bằng giá trị, vàng thau lẫn lộn, thiện ác bất phân.

Như tại miền Nam Việt Nam trong khi cuộc chiến vẫn đang diễn ra thì những cụ già từ thôn quê đến thành phố đã gọi Mỹ-ngụy là giặc, họ gọi thế ngay dưới mạng lưới truyền thông, sách báo, hệ thống tuyên truyền, và bộ máy trấn áp khổng lồ và tinh vi của giặc Mỹ và tay sai. Họ thấy khắp miền Nam đều dày đặc người Mỹ, lính Mỹ, “Tây ba lô” da trắng, mắt xanh mũi lõ. Những kẻ mà họ gọi là “chó săn” kia thì khúm núm trước quan thầy Hoa Kỳ, ai được chụp hình chung với người Mỹ là mặt mày tươi rói, kênh kiệu, vênh váo, sáng rỡ hẳn lên, rồi dựa thế của Mỹ lên mặt với đồng bào, cướp bóc, vơ vét, xách nhiễu, quấy rối, gây khó dễ. Thì họ coi Mỹ-ngụy là giặc là chuyện tất nhiên.

Bà con mình thấy bọn Việt gian chỉ đường và thông ngôn, thông dịch cho quân Mỹ đi càn quét khắp miền quê Nam Bộ, đi càn hết làng này sang thôn khác thì không gọi là giặc thì gọi là gì? Liên quan gì đến kết quả ai thắng, ai bại?

Thực dân Pháp đã từng chiến thắng hàng trăm cuộc chiến trong thời Pháp thuộc, từng tiêu diệt hàng trăm lực lượng nghĩa quân, lê máy chém trên khắp đất Việt chặt đầu hàng chục ngàn thủ lĩnh, lãnh tụ, tướng lĩnh của nghĩa quân. Nhưng thực dân Pháp mãi mãi là giặc, các ngụy triều ở Huế thời Pháp thuộc mãi mãi là ngụy, lính khố xanh, khố đỏ là ngụy, bọn tay sai đắc lực của Pháp như Trần Tiễn Thành, Hoàng Cao Khải, Trần Bá Lộc, Nguyễn Thân v.v. luôn luôn là ngụy, chắc chắn là ngụy. Dù bên nào thắng, bên nào thua thì lịch sử vẫn không thay đổi.