KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, THỜI ĐẠI CỦA CHIẾN THẮNG 30 THÁNG 4

Năm nay, trong những ngày hướng đến kỷ niệm Chiến thắng lịch sử vĩ đại 30/4/1975, nhân dân ta đón mừng sự kiện này với nhiều niềm vui mới. Theo báo cáo của Chính phủ, kinh tế Việt Nam năm 2018 khởi sắc trên cả ba khu vực sản xuất, cung - cầu của nền kinh tế cùng song hành phát triển.

NHẬN DIỆN VÀ NGĂN NGỪA THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG LÒNG YÊU NƯỚC ĐỂ KÍCH ĐỘNG NGƯỜI DÂN XUỐNG ĐƯỜNG BIỂU TÌNH, GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Người yêu nước chân chính là người biết sử dụng pháp luật, đạo đức, truyền thống tốt đẹp để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, đồng thời phải biết tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Nhận diện được phương thức, thủ đoạn lợi dụng lòng yêu nước để kích động nhân dân làm việc xấu chính là nhằm đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp, đồng thời tránh được sự lợi dụng đó để gây ra rối loạn xã hội, phức tạp tình hình.

Thông cáo báo chí kỳ họp 32 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Từ ngày 03 đến 06/12/2018 tại Hà Nội, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã họp kỳ 32. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương chủ trì kỳ họp.

UBKTTW kết luận vụ AVG: Sai phạm của ông Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn là rất nghiêm trọng

UBKTTW vừa họp kỳ 26 kết luận vụ AVG có những vi phạm của Ban cán sự đảng Bộ TT-TT, ông Nguyễn Bắc Son, ông Trương Minh Tuấn, ông Phạm Đình Trọng, của Ban Thường vụ Đảng ủy Mobifone và các ông Lê Nam Trà, Cao Duy Hải là rất nghiêm trọng.

Bốn kỳ vọng thay đổi lớn về công tác cán bộ sau 4 ngày Hội nghị T.Ư 7

Sau 4 ngày làm việc, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng được dư luận đặc biệt quan tâm, trong đó có công tác cán bộ, bởi đây là vấn đề “nóng” trong tình hình hiện nay.

Hiển thị các bài đăng có nhãn dân tộc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn dân tộc. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 20 tháng 9, 2017

Tại sao một số người giàu tìm cách ra đi, còn tôi lại trở về

Khi không thoát li được đời sống thực tại, người ta cần xác lập được một thiên đường ngay ở cõi lòng từng con người, để mà chọn lựa cách sống.

Bài viết của nhà văn Nguyễn Văn Thọ
Tôi từng trăn trở rằng tại sao những người bạn của tôi ở những quốc gia tạm gọi là thiên đường… lại tình nguyện sang Việt Nam và các nước khác, đến những vùng đất xa xôi khó khăn để giúp đỡ một dân tộc xa lạ. Vậy thì tại sao tôi là người Việt, lại không thể trở về?
Cho tới năm nay tôi đã sống đủ gần một đời người. Cuộc sống từng ấy năm, cũng qua nhiều khi trầm lúc bổng. Thời gian nan vô cùng là tôi đã từng 11 năm trực tiếp chiến đấu nơi chiến trường. Rồi cả những năm tháng hậu chiến rất khó khăn thời bao cấp. Năm 1988 tôi đến Đức, ở lại làm nhiều việc. Từ năm 2001 tôi quyết định bỏ hẳn buôn bán, lấy việc viết là mục đích và phương tiện để sống và chiến đấu.
Cũng như rất nhiều người Việt khác, tôi tự nhận thức, dường như số phận cá nhân mỗi con người Việt ta luôn gắn liền với thân phận đất nước, số phận của dân tộc. Trong khoảng 30 năm ở Đức, năm nào tôi cũng quay về Việt Nam, có năm tới hai ba lần.
Cách đây 5 năm tôi quyết định về hẳn Việt Nam để sống. Sự thật đời sống ở CHLB Đức về phương tiện vật chất hơn hẳn hoàn cảnh thực tại ở nước ta. Tôi có đủ tư cách để đưa cả gia đình sang bên Đức, nếu chỉ quan tâm tới những gì gọi là phương tiện vật chất.
Nhưng tôi vẫn quyết định trở về nước để sống. Bởi theo tôi, đời sống người ta không chỉ là vật chất mà bao gồm cả các hoạt động về tinh thần phong phú, giúp cho người ta nhiều nguồn vui hơn nỗi buồn. Đó chính là hai cặp giá trị phải luôn song trùng, mới tạo dựng sự cần và đủ cho một cuộc sống hạnh phúc ở từng cá thể.
Và, một điều quan trọng vô cùng nữa là, mỗi con người ta, nơi gắn bó nhất là nơi đã sinh ra ta -“Chôn nhau cắt rốn”, nơi cả tuổi thơ ta trong đó. Với tôi, còn ý nghĩa hơn nữa là, đất nước Việt Nam chính là nơi có một thời rất dài, thế hệ chúng tôi từng sống chết vì nó, nhiều anh em bạn bè đã ngã xuống, lấy máu để bảo vệ và xây dựng. Vì vậy, thiên đường với tôi là quê hương, thiên đường là được trở về.
Mấy hôm nay, thời sự nói nhiều về làn sóng ngầm di cư của một nhóm người giàu, những doanh nhân thành công tại Việt Nam. Những người ra đi, họ hy vọng một bầu không khí sạch, thực phẩm sạch, y tế hiện đại, giáo dục tiên tiến ở thiên đường mới.
Thế nhưng, tôi nhiều suy nghĩ trăn trở khi nhìn sang những đất nước như Đức, Israel…, lúc gian nan nhất, trí thức vẫn ở lại đoàn kết đưa đất nước phát triển. Cho nên, những người giàu bỏ nước ra đi nếu chỉ để được thụ hưởng những thành tựu có sẵn của xứ người ta đã bao năm cần cù tạo sẵn, thì trong sự ra đi ấy có cần nhìn lại ý thức dân tộc của họ?
Khi không thoát li được đời sống thực tại, người ta cần xác lập được một thiên đường ngay ở cõi lòng từng con người, để mà chọn lựa cách sống. Ý niệm về thiên đường hay đất hứa được xác lập khi tự mỗi người tìm cách sống, ở một vùng sống có ý nghĩa nhất, không chỉ cho cá nhân mình mà còn cho một cộng đồng nào đó.
Theo VOV

Thứ Sáu, 15 tháng 9, 2017

Giải quyết mối quan hệ tôn giáo – dân tộc, những vấn đề lịch sử và bài học kinh nghiệm

Đạo Thiên chúa du nhập vào nước ta từ thế kỷ 16 và không lâu sau tôn giáo này đã bén rễ nhanh chóng trên mảnh đất vốn tự hào có truyền thống khoan dung tôn giáo, hòa hợp tôn giáo.
Nhưng cũng không lâu sau đó, tôn giáo này đã vấp phải sự phản kháng quyết liệt trong nhiều mối quan hệ giữa giáo dân với lương dân, giữa “việc đạo” với “việc đời”, giữa giáo hội với chính quyền và bao trùm hơn cả là mâu thuẫn giữa Thiên chúa giáo với dân tộc Việt Nam ngay trên quê hương của “tam giáo đồng nguyên”. Mâu thuẫn có lúc lên cao và đã dẫn đến những xung đột, những cuộc chém giết đẫm máu giữa giáo dân và lương dân làm ảnh hưởng không nhỏ đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Vậy câu hỏi đặt ra là: Vì sao ở một dân tộc có truyền thống hoà hợp tôn giáo như Việt Nam lại xảy ra những xung đột tôn giáo – dân tộc đáng tiếc như vậy?Để trả lời câu hỏi này, cần phải trở về với ngọn nguồn của nó, tìm hiểu nguyên nhân chính, nguyên nhân sâu xa của vấn đề tôn giáo – dân tộc. Việc truyền bá và phát triển đạo Thiên chúa ở Việt Nam nói chung, Nghệ An nói riêng, là sứ mạng thiêng liêng của các thừa sai nhằm thực hiện ý Chúa “anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa cha, Chúa con và Chúa thánh thần”.
Nhưng việc các giáo sỹ phải đi truyền giáo ở một nơi xa xôi “ngoài đạo” (vùng đất mới của phương Đông) thì bản thân giáo hội không thể chu toàn. Vì vậy, họ cần liên kết với các thế lực tư sản mà lúc này chủ yếu là tư sản Pháp để nhờ cậy về tiền bạc và phương tiện. Đổi lại, các thừa sai sẽ có nhiệm vụ thông báo cho Nhà nước tư sản những tin tức cần thiết. Đúng như bản điều trần của Hội Thừa sai Pari gửi cho Quốc hội Pháp năm 1790: “ Hội Thừa sai… có sứ mạng đem ánh sáng của “đức tin” và ảnh hưởng của nước Pháp đến các nước phương Đông”. Còn Napôlêông đã tuyên bố: “Hội truyền giáo nước ngoài sẽ rất có ích cho tôi ở châu á… tôi sẽ cử các giáo sĩ đi điều tra tình hình ở các xứ. Tấm áo của họ sẽ che chở cho họ và sẽ dùng để che dấu những mưu đồ chính trị và thương nghiệp” (Theo “Sự truyền bá và tiếp nhận Thiên chúa giáo ở Việt Nam” của Nguyễn Khắc Thuần).
Điều này có nghĩa là khi các giáo sỹ phương Tây truyền đạo Thiên chúa vào Việt Nam thì hẳn không chỉ là cuộc truyền bá “ Đức tin” đơn thuần, mà các giáo sĩ vừa truyền đạo, vừa dọn đường cho thực dân vào xâm lược nước ta. Tới khi thực dân Pháp vào xâm lược và đặt quyền cai trị lên đất nước ta thì các thừa sai sẽ có thêm thuận lợi, sự liên kết giữa thế quyền và thần quyền. Đối với Việt Nam – một quốc gia có truyền thống chống ngoại xâm thì đây là vấn đề vô cùng nhảy cảm. Phần lớn người dân Việt Nam cho rằng: Các thừa sai nước ngoài là những đối tượng tiếp tay cho kẻ xâm lược, còn những giáo dân theo đạo của kẻ xâm lược thì bị xem là phản bội dân tộc mình.Với thành kiến đó, những giáo dân vô tội đã phải chịu những áp lực của sự lạnh nhạt nơi chính đồng bào mình, ngay trên chính quê hương mình. Rồi khi triều đình nhà Nguyễn đưa ra các chỉ dụ “bách đạo” mở đầu cho những mâu thuẫn gay gắt giữa tôn giáo và dân tộc sẽ diễn ra sau đó đã vô tình đẩy đồng bào Thiên chúa giáo xa rời dân tộc mình hơn. Như vậy, chúng ta đã rơi ngay vào cái bẫy mà kẻ địch đã gài sẵn. Lợi dụng mâu thuẫn giữa tôn giáo với dân tộc ta, kẻ địch đã sử dụng mọi thủ đoạn để mua chuộc và lôi kéo giáo dân để giáo dân chống lại đồng bào mình ngay cả trong thời gian gần đây. Vì thế, trong thời gian xảy ra cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đã xuất hiện tình trạng “người công giáo dường như bị kẹt giữa hai cực tiến thoái lưỡng nan. Hợp tác với Việt Minh thì … phản lại giáo hội mà liên hiệp với Pháp thì… đối lập với dân tộc”. Như vậy, sự “dính líu” giữa tôn giáo và thực dân khi tôn giáo này du nhập vào Việt Nam đã làm nảy sinh mâu thuẫn mới giữa tôn giáo và dân tộc Việt Nam.
Sau Hoà ước năm 1862, với việc mất 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ đã gây nên sự bất mãn trong nhân dân cả nước, triều đình nhà Nguyễn lại tỏ thái độ khoan dung Công giáo. Trong hoàn cảnh đó, giám mục Gauthier trở về địa phận với một kiểu rất Pháp, rất thực dân: “Vào một ngày cuối tháng 5/1861 tàu Cốtxmao (Cosmao) cập bến Cửa Hội, bắn mấy phát súng đại bác khi Đức cha Ngô Gia Hậu được đông đảo giáo hữu rước về trụ sở giáo phận”. Kiểu trở về giáo phận lần này của giám mục Gautheir rõ như có ý hăm dọa đối với các thế lực chống Thiên chúa giáo ở địa phương. Đáp lại, phong trào Văn thân chống Pháp, chống Thiên chúa giáo ở Nghệ – Tĩnh – Bình được các thừa sai Pháp miêu tả như là cơn “bão táp” và “thật là khủng khiếp”. Tiêu biểu cho phong trào Văn thân là khẩu hiệu “Bình Tây, sát tả”, đỉnh cao là vào năm 1874. Đây là một “vết đen” trong lịch sử quan hệ lương – giáo của dân tộc nói chung và của Nghệ An nói riêng.
Nhưng vị thế của dân tộc Việt Nam đã thay đổi, ngày 2/9/1945 nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã thấy được tính cấp bách và phức tạp của vấn đề giải quyết mối quan hệ tôn giáo – dân tộc. Trong cuộc họp phiên đầu tiên của chính phủ cách mạng ngày 3/9/1945, trước vô vàn vấn đề quốc gia đại sự, Hồ Chí Minh đã nêu lên 6 vấn đề cấp bách. Trong 6 vấn đề đó có vấn đề giải quyết mối quan hệ tôn giáo – dân tộc, quan hệ lương – giáo, người ra tuyên bố gồm 8 chữ: “Tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết”.
Chính sách tôn giáo của Hồ Chí Minh đã làm vô hiệu hoá âm mưu lợi dụng tôn giáo làm công cụ bên trong để phá hoại cách mạng nước ta của kẻ thù. Bởi thực tế, sự gần gũi giữa các thừa sai Thiên chúa giáo với thực dân Pháp xâm lược khi mới vào nước ta chỉ là quan hệ mang tính lịch sử và thời đại. “Sự dính líu của giáo hội La Mã và của Hội Thừa sai Pari với các cuộc xâm lược thực dân của các thế lực tư sản phương Tây … hẳn là đã không hoàn toàn xuất phát từ bản chất thiêng liêng và nhân ái của sự truyền giáo”. Hơn thế, Toà thánh Roma cũng dễ dàng nhận thấy sự bất lợi trong mối quan hệ xung đột giữa tôn giáo với các dân tộc bản địa. Vì vậy, Toà thánh đã sớm có chỉ thị “xây dựng các giáo hội bản xứ phải thật mềm dẻo và đúng với tin mừng … trong việc truyền đạo không được tham dự vào các lĩnh vực chính trị cũng như tôn trọng các nền văn minh và phong tục điạ phương …”.
Thông qua việc nắm bắt được bản chất của vấn đề, Đảng, Bác Hồ đã đề ra được những chủ trương, chính sách tôn giáo đúng đắn góp phần to lớn vào sự nghiệp đoàn kết toàn dân kháng chiến thắng lợi, độc lập, thống nhất đất nước.
Ngày nay, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, công tác tôn giáo là vấn đề đang được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Đảng xác định: “Tôn giáo còn tồn tại lâu dài”, “Đạo đức tôn giáo còn nhiều điểm phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”. Đồng thời về phía giáo hội toàn cầu đã có nhiều cải cách, giáo hội Việt Nam cũng đã khẳng định: “Là hội thánh trong lòng dân tộc Việt Nam, chúng ta quan tâm gắn bó với vận mệnh quê hương, noi theo truyền thống dân tộc hoà mình vào cuộc sống hiện tại của đất nước …” Bên cạnh đó, Đảng ta cũng khẳng định thêm: “Tình hình hoạt động tôn giáo còn có những diễn biến phức tạp tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định … Một số người đã lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tiến hành những hoạt động chống đối kích động tín đồ nhằm phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định chính trị” (Nghị quyết 25/TW năm 2003).
Vậy, hiện nay công tác tôn giáo vẫn là nhằm giải quyết mối quan hệ hoà hợp, đồng hành tôn giáo với dân tộc, thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân.Quá khứ về quan hệ lương – giáo, tôn giáo – dân tộc vẫn còn đó sẽ là bài học cho sự hoà hợp tôn giáo – dân tộc trong hiện tại và tương lai. Hơn thế nữa, trong thời điểm hiện nay, các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo thường nguy trang dưới nhiều hình thức, gây nên sự bất ổn khó lường và tính nguy hại lại rất lớn. Vì vậy, đòi hỏi công tác tôn giáo cũng phải được chú trọng để đáp ứng được với yêu cầu của thời đại.
Thiết nghĩ, đây là việc làm không đơn giản, không phải ngày một ngày hai. Phần lớn các linh mục là những người có kiến thức uyên thâm, được đào tạo rất bài bản. Vì vậy, cán bộ tôn giáo khi tiếp cận với các linh mục ngoài việc phải có kiến thức (đặc biệt là kiến thức tôn giáo), còn cần phải có một phong cách điềm đạm, tự tin, thận trọng nhưng rất chân thành. Thông qua mối quan hệ gần gũi giữa cán bộ tôn giáo với các chức sắc nhằm trao đổi, hiểu biết, chia sẻ việc đạo và việc đời. Phải tôn trọng thực sự những hoạt động tín ngưỡng chính đáng của giáo dân, xem đó như là một hoạt động văn hoá dân tộc. Ngoài ra, cần xem xét và cố gắng giải quyết những nhu cầu tín ngưỡng chính đáng như rước lễ, đào tạo linh mục….Có thể nói trong thời gian qua công tác tôn giáo, cũng như mối quan hệ tôn giáo – dân tộc ở vùng giáo Nghệ An đã đạt được nhiều kết quả to lớn. Nhưng trước một vấn đề lớn – vấn đề tôn giáo, Đảng, Nhà nước cần phải có những chính sách hợp lý và sự quan tâm đầu tư hơn nữa để huy động được tối đa sức dân trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Vì vậy, để giải quyết vần đề này Đảng, Nhà nước cần phải có các chính sách đồng bộ, hợp lý, cần phải có các dự án đầu tư thích hợp nhằm xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng các mô hình xóm, thôn, xã văn hoá, để giúp giáo dân thấy được sự quan tâm thực sự của chính quyền, của Đảng, tạo mối quan hệ gần gũi lương – giáo, chính quyền – giáo hội .
NGUYỄN VĂN PHƯỢNG (TRƯỜNG CHÍNH TRỊ NGHỆ AN)