KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, THỜI ĐẠI CỦA CHIẾN THẮNG 30 THÁNG 4

Năm nay, trong những ngày hướng đến kỷ niệm Chiến thắng lịch sử vĩ đại 30/4/1975, nhân dân ta đón mừng sự kiện này với nhiều niềm vui mới. Theo báo cáo của Chính phủ, kinh tế Việt Nam năm 2018 khởi sắc trên cả ba khu vực sản xuất, cung - cầu của nền kinh tế cùng song hành phát triển.

NHẬN DIỆN VÀ NGĂN NGỪA THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG LÒNG YÊU NƯỚC ĐỂ KÍCH ĐỘNG NGƯỜI DÂN XUỐNG ĐƯỜNG BIỂU TÌNH, GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Người yêu nước chân chính là người biết sử dụng pháp luật, đạo đức, truyền thống tốt đẹp để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, đồng thời phải biết tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Nhận diện được phương thức, thủ đoạn lợi dụng lòng yêu nước để kích động nhân dân làm việc xấu chính là nhằm đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp, đồng thời tránh được sự lợi dụng đó để gây ra rối loạn xã hội, phức tạp tình hình.

Thông cáo báo chí kỳ họp 32 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Từ ngày 03 đến 06/12/2018 tại Hà Nội, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã họp kỳ 32. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương chủ trì kỳ họp.

UBKTTW kết luận vụ AVG: Sai phạm của ông Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn là rất nghiêm trọng

UBKTTW vừa họp kỳ 26 kết luận vụ AVG có những vi phạm của Ban cán sự đảng Bộ TT-TT, ông Nguyễn Bắc Son, ông Trương Minh Tuấn, ông Phạm Đình Trọng, của Ban Thường vụ Đảng ủy Mobifone và các ông Lê Nam Trà, Cao Duy Hải là rất nghiêm trọng.

Bốn kỳ vọng thay đổi lớn về công tác cán bộ sau 4 ngày Hội nghị T.Ư 7

Sau 4 ngày làm việc, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng được dư luận đặc biệt quan tâm, trong đó có công tác cán bộ, bởi đây là vấn đề “nóng” trong tình hình hiện nay.

Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2019

NGƯỜI LÍNH GIẢI PHÓNG HY SINH TRƯỚC CỬA NGÕ SÀI GÒN.

Cứ mỗi tháng Tư về, tôi lại tìm đến những đồng đội đã cùng mình thần tốc tiến về giải phóng Sài Gòn trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Những người lính ngày ấy, số ít đang tại ngũ, số nhiều hơn đã trở về đời thường.

NGƯỜI LÍNH GIẢI PHÓNG HY SINH TRƯỚC CỬA NGÕ SÀI GÒN.

Không ít đồng đội tôi đã nằm lại cửa ngõ Sài Gòn, nằm lại với đất phương Nam trước ngày toàn thắng. Tháng Tư này, tôi tìm đến nhà liệt sĩ Trần Văn Trắc ở xóm Lương Ninh (xã Xuân Đan, Nghi Xuân, Hà Tĩnh), thắp nén nhang lên bàn thờ người đồng đội, trong khói hương trầm mặc, lòng tôi bỗng sống dậy cả một miền ký ức…
Khoảng giữa năm 1974, ngày ấy tôi đang là Tiểu đoàn trưởng bộ binh thuộc Trung đoàn 266, Sư đoàn 341. Tiểu đoàn tôi được bổ sung gần 30 tân binh quê Hà Tĩnh. Trong gần 30 chiến sĩ ấy, người gây được sự chú ý nhất của tôi là một anh lính đồng hương, mang cái tên ngồ ngộ: Trần Văn Trắc.
Là “dân” Hà Tĩnh, nên Trắc rất cần cù, chịu khó. Từ việc nấu ăn, quét nhà, đánh tranh, dựng lán… Trắc đều làm trơn tru. Nhưng nỗi đam mê nhất của Trắc là những cuốn sách giáo khoa. Đêm đêm, trong tiếng gào rú của đạn bom, của tiếng máy bay trên đầu, dưới căn hầm cá nhân, Trắc mải mê với những trang sách.
Những lần đến thăm đồng hương, Trắc thường ngước đôi mắt trong veo lên nhìn tôi: “Chúng ta sẽ tiến về Sài Gòn, phải không thủ trưởng? Sài Gòn giải phóng thì đồng bào ta trong đó được sống trong độc lập, tự do; đất nước được hòa bình. Em sẽ được thi vào đại học để thực hiện ước mơ của mình. Em sẽ trở thành kỹ sư xây dựng, thủ trưởng ạ!”.
Những năm tháng ấy, thời gian trôi đi dữ dội quá. Dữ dội đến độ người lính chúng tôi không còn cảm giác về thời gian nữa. Thời gian nhập nhòa màu lửa cháy, nhập nhòa màu máu đỏ. Chỉ có màu xanh áo lính chúng tôi và những ước mơ của người lính làm cho chúng tôi nhận ra ở đây còn có màu xanh. Một màu xanh khát khao và hy vọng…!
Tháng 4-1975, sư đoàn chúng tôi nhận lệnh tiến về giải phóng Xuân Lộc, đập tan cái chốt chặn kiên cố nhất của địch ở cửa ngõ Sài Gòn. Lúc này, Trắc đã là hạ sĩ, tiểu đội trưởng thuộc trung đội hỏa lực trực thuộc tiểu đoàn. Tiểu đoàn ém quân trong một rừng cao su, chặn đánh quân địch tiếp viện cho Xuân Lộc.
Hôm đó, chừng 9 giờ sáng, hình như đánh hơi được điều gì bất ổn, địch cho máy bay rà soát trên đội hình quân ta và tung thám báo ra lùng sục. Bọn thám báo dàn hàng ngang, vừa đi, vừa bắn như vãi đạn, tiến về hướng trận địa quân ta. Nguy cơ trận địa bị lộ treo lơ lửng ngay trước mắt. Đúng lúc đó, Trắc ôm súng chạy đến bên tôi:
- Báo cáo thủ trưởng, cho tiểu đội em xuất kích!
- Xuất kích? - Tôi tròn mắt - Đồng chí có khùng không đấy? Nổ súng bây giờ trận địa sẽ lộ, còn đâu là phục kích, là bất ngờ nữa?!
- Báo cáo: Nếu không xuất kích, cả đại đội thám báo đang càn vào đội hình ta thế kia, sớm muộn gì trận địa cũng lộ. Theo em biết, trong tiểu đoàn đang có 5 đồng chí du kích địa phương làm nhiệm vụ dẫn đường. Bọn em sẽ đổi quần áo cho họ rồi tách ra khỏi đội hình, nổ súng đánh lạc hướng địch. Nếu có bề gì, chúng cũng chỉ nghi bọn em là du kích và sẽ chẳng còn nghi ngờ có chủ lực ta ở đây!
Tôi đã hiểu ý định của người tiểu đội trưởng, người đồng hương của mình. Một thoáng đắn đo trong đầu tôi. Như đọc được ý nghĩ đó, Trắc gằn giọng:
- Để bọn em xuất kích, khi đang còn kịp! Quyết định đi, thủ trưởng!
Tôi cắn môi, gật đầu. Hơn 15 phút sau, tiếng súng của tiểu đội 5 người do Trắc chỉ huy đã nổ vào sau lưng lũ thám báo. Các anh vừa bắn, vừa rút. Bọn địch hò nhau đuổi theo. Tiếng AK nổ từng điểm xạ ngắn, lúc nơi này, lúc nơi khác, xa dần đội hình phục kích của tiểu đoàn.
Gần một giờ sau, tiếng súng của tiểu đội Trắc chỉ còn nổ lẻ tẻ rồi im bặt. Ngồi trong công sự, bằng mắt thường, nhiều cán bộ, chiến sĩ cũng thấy lũ giặc đang kéo thi thể 5 anh em ra mặt đường. Chúng tôi thấy ruột mình như đang bị xát muối. Nhiều người cố ghìm tiếng nấc, răng nghiến kèn kẹt; có người đôi tròng mắt bật máu!
Qua bộ đàm, tôi nghe bọn thám báo báo về thượng cấp của chúng: “đã chạm súng với một trung đội du kích cộng quân. Tất cả cộng quân đã bị bắn hạ (!)”, rồi chúng hí hửng rút lui. Lũ máy bay L19 cũng không còn vo ve trên đầu nữa.
Một lúc sau, đoàn quân xa của địch tiếp viện cho Xuân Lộc chẳng nghi ngờ gì, tiến vào trận địa ta phục kích. Khi chiếc xe cuối cùng lọt vào tầm ngắm của DKZ, tôi đấm mạnh tay xuống đất, gầm lên:
- Vì Sài Gòn giải phóng! Trả thù cho tiểu đội đồng chí Trắc! B…ắn!
Trong cuộc đời trận mạc của mình, chưa bao giờ tôi thấy tiếng súng tiểu đoàn nổ dữ dội đến thế. Những luồng đạn DKZ, B40, B41 đầu tiên đã thiêu cháy gần hết đoàn xe. Tôi phát lệnh xung phong. Cả tiểu đoàn lao lên bằng sức mạnh căm thù và tình yêu đồng đội. Đoàn quân tiếp viện của địch bị tiêu diệt hoàn toàn. Lúc đó là trưa ngày 12-4-1975!
Đã 31 năm Sài Gòn được giải phóng!
Đất nước đang khởi sắc từng ngày trong công cuộc đổi mới của Đảng ta. Sống trong thanh bình, rất nhiều đêm, rất nhiều năm, hình ảnh của Trắc, của tiểu đội anh hùng ấy cứ hiện về cháy rát trong tim tôi. Và có thể hình bóng của người đồng đội ấy sẽ đi theo tôi suốt cuộc đời.
Trắc đã đi xa. Anh đã được đồng đội và bà con cô bác đưa về an nghỉ ở nghĩa trang Long Khánh ngay cửa ngõ Sài Gòn. Trong ký ức của tôi và bao đồng đội, mãi mãi, anh và những người lính như anh đã ngã xuống cho cuộc đời hôm nay, đã trở thành bất tử!
Và, cứ độ tháng tư về, trong tôi lại hiện về lấp lánh màu xanh quân phục của những đoàn quân ào ạt tiến về Sài Gòn; lại hiện về lấp lánh màu xanh quân phục sạm đen khói súng của Trắc đang ôm súng lao lên dưới một trời đạn lửa. Hình như đâu đó trên các giảng đường đại học, tôi vẫn thấy Trắc bằng xương, bằng thịt đang ngồi trước trang sách mở, miệng mỉm cười, ngước đôi mắt trong veo lên bục giảng.
Và, tôi bỗng nhận ra một điều thật ấm áp: Những người lính như anh vẫn còn sống mãi trong trái tim, trong nỗi nhớ, trong ký ức mỗi chúng tôi; đứng cao hơn số phận con người!
* Tháng 4-2006 (Viết theo lời kể của Trung tá Lê Văn Vinh, nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 266, Sư đoàn 341).
Thu Lê

Thứ Năm, 25 tháng 4, 2019

CẢNH GIÁC TRƯỚC NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ NGÀY 30/4

Cứ vào dịp 30/4, bên cạnh những hoạt động tri ân, biết ơn với lớp lớp thế hệ người con ưu tú của dân tộc đã hy sinh cuộc đời và tuổi thanh xuân của mình cho nền độc lập tự do của Tổ quốc, là những hoạt động chống phá điên cuồng, quyết liệt của các thế lực phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước. Tiêu biểu trong các đối tượng trên đây là Ngọc Ẩn với bài viết “miền Nam giải phóng cộng sản bắc việt”. Nội dung bài viết là những luận điệu cố tình xuyên tạc, phủ nhận những hy sinh xương máu của nhân dân hai miền Nam - Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc; cho rằng, nhân dân miền Bắc cướp quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do bầu cử, tự do ứng cử của nhân dân miền Nam và cả nước, để từ đây “ngày 30/4/1975 là ngày giải phóng miền Bắc”. Vậy đâu là sự thật, luận điệu trên được luận giải ở những khía cạnh chủ yếu sau.

CẢNH GIÁC TRƯỚC NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ NGÀY 30/4

Thứ nhất, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là cuộc chiến tranh chính nghĩa, nhằm đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sự thật lịch sử của chiến thắng 30/4/1975 là điều không thể phủ nhận. Có chăng chúng ta làm rõ vấn đề này để thêm tự hào về Đảng ta, nhân dân ta và dân tộc ta; đồng thời, vạch mặt những kẻ bán nước cầu vinh, phản bội Tổ quốc, cố tình phá hoại sự phát triển của đất nước, của cách mạng Việt Nam từ sau năm 1954. Với âm mưu xóa bỏ chế độ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đế quốc Mỹ đã nhảy vào xâm chiếm nước ta, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, phục vụ cho mưu đồ sen đầm khu vực. Mỹ đã đưa vào đây hơn nửa triệu quân và sử dụng tất cả các loại vũ khí, kỹ thuật hiện đại nhất, kể cả vũ khí hóa học với mưu toan đè bẹp ý chí chiến đấu của dân tộc ta hòng buộc chúng ta phải khuất phục. Điển hình của sự thảm khốc, tàn bạo đó là quân đội Mỹ đã dùng pháo đài bay B.52, ném bom hủy diệt Hà Nội và một số thành phố khác, hòng “đưa miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá”; “Cây muốn lặng, mà gió chẳng muốn ngừng”, như thế thử hỏi có phải bắc Việt Nam đem quân vào xâm chiếm miền Nam, cướp chính quyền của nhân dân miền Nam? Rõ ràng, sự thật lịch sử ở đây là không phải như vậy, chính đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã tráo trở, trắng trợn gắp lửa bỏ tay người, đi ngược lại với những điều khoản đã ký trong Hiệp định Giơnevơ là hai miền Nam - Bắc sẽ tiến hành cuộc tổng tuyển cử thống nhất đất nước vào năm 1956.
Trái với nguyện vọng thiết tha hòa bình, khát vọng hạnh phúc của nhân dân ta, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã từng bước vi phạm Hiệp định, dựng lên chính quyền tay sai bù nhìn, lê máy chém khắp miền Nam, biến miền Nam Việt Nam thành nhà tù khổng lồ, chia cắt đất nước ta thành hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì sự tồn vong của dân tộc buộc toàn thể nhân dân Việt Nam phải cầm súng chiến đấu chống quân xâm lược. Với chân lý “Không có gì quí hơn độc lập, tự do”, “Nam - Bắc một nhà”, “miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam”; “sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”… Dưới sự lãnh đạo tài tình, đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta ở cả hai miền Nam, Bắc đã đồng tâm, hiệp lực, không ngại hy sinh, gian khổ, đoàn kết chiến đấu chống lại cuộc chiến tranh phi nghĩa, tàn bạo của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giành thắng lợi với mốc son chói lọi là Đại thắng Mùa xuân 30/4/1975, thu non sông đất nước về một mối, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của cả dân tộc.

Thứ hai, nhân dân miền Bắc đã làm tròn vai trò sứ mệnh lịch sử của mình là căn cứ địa cách mạng của cả nước, chi viện sức người, sức của đầy đủ, kịp thời cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 12/1965) khẳng định, thành tựu của hơn 10 năm khắc phục hậu quả của chiến tranh, cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Miền Bắc đã trở thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng Việt Nam trong cả nước, với một chế độ chính trị ưu việt, với lực lượng kinh tế và quốc phòng lớn mạnh”. Quán triệt tinh thần đó, nhân dân miền Bắc đã tích cực, chủ động với tinh thần “một ngày làm việc bằng hai”“tiền tuyến gọi, hậu phương đáp”“thóc không thiếu một cân quân không thiếu một người”; vì miền Nam ruột thịt, nhân dân miền Bắc sẵn sàng đáp ứng đầy đủ những nhu cầu về vật chất và tinh thần cho cuộc kháng chiến trường kỳ lâu dài nhưng nhất định thắng lợi. Vì vậy, trong suốt 21 năm chiến tranh, miền Bắc đã chi viện liên tục, toàn diện với nhịp độ ngày càng tăng, đáp ứng đòi hỏi của chiến trường miền Nam, cách mạng miền Nam. Trong vòng 10 năm (từ năm 1965 đến 1975), miền Bắc đã động viên hàng triệu lao động, chủ yếu là thanh niên trẻ, khỏe, ưu tú để bổ sung, mở rộng lực lượng vũ trang và phục vụ chiến đấu. Trong thời gian diễn ra những cuộc tiến công chiến lược (1968, 1972, 1975), nhân lực động viên ở miền Bắc phục vụ nhu cầu chiến tranh tăng gấp 4 đến 5 lần so với trước. Không tính số quân bảo vệ miền Bắc, làm lực lượng dự bị chiến lược, chiến đấu và công tác trên tuyến vận tải 559, chỉ tính riêng số quân đưa vào miền Nam trong các năm kể trên như sau: năm 1968 là 141.000 người, năm 1972 xấp xỉ 153.000 người, năm 1975 là 117.000 người. Ngoài lực lượng trực tiếp chiến đấu, các lực lượng vận tải, bảo đảm giao thông, mở đường và các lực lượng bảo đảm khác gồm hàng chục vạn người cũng được động viên từ miền Bắc. Như vậy, có thể thấy cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước không còn là nhiệm vụ của riêng mỗi miền mà đó là nhiệm vụ chung của cả dân tộc, của khối đại đoàn kết toàn dân và cũng bác bỏ hoàn toàn luận điệu xuyên tạc bỉ ổi vô căn cứ của Ngọc Ẩn; đồng thời, khẳng định vai trò to lớn của nhân dân miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc.
Với lương tâm và trách nhiệm của một công dân Việt Nam, ai cũng có quyền tự hào về sự anh dũng hy sinh của những anh hùng liệt sĩ cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc, nhận thấy bổn phận, nghĩa vụ của mình trong việc giữ gìn, phát huy truyền thống lịch sử đó. Đối với những ai không hiểu, hoặc cố tình không hiểu, tìm mọi cách để xuyên tạc, phủ nhận thì sẽ bị chính thực tiễn lịch sử đáp trả, bằng những thành tựu của đất nước sau 44 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Bản án lương tâm của chính những kẻ phản bội lại dân tộc sẽ phán xét một cách công bằng, đầy đủ và chính xác cho sự nhẹ dạ cả tin đi theo hào nhoáng, lợi ích vật chất do các phần tử phản động đặt ra./.

KHỞI TỐ NGUYỄN THỊ TUYẾT TỘI HOẠT ĐỘNG NHẰM LẬT ĐỔ CHÍNH QUYỀN NHÂN DÂN


Tại địa phương, Tuyết đã vận động nhiều người dân tham gia trưng cầu dân ý bầu cho Đào Minh Quân làm Tổng thống “Đệ tam Việt Nam cộng hòa”.

KHỞI TỐ NGUYỄN THỊ TUYẾT TỘI HOẠT ĐỘNG NHẰM LẬT ĐỔ CHÍNH QUYỀN NHÂN DÂN
Nguyễn Thị Tuyết tại Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Lâm Đồng
Ngày 25/4, Cơ quan An ninh điều tra - Công an tỉnh Lâm Đồng cho biết đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam Nguyễn Thị Tuyết (SN 1961), thường trú tại thôn 1, xã Đại Lào, TP. Bảo Lộc (tỉnh Lâm Đồng), để điều tra về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo khoản 2, Điều 109, Bộ luật Hình sự.
Theo Cơ quan An ninh điều tra - Công an tỉnh Lâm Đồng, kết quả điều tra bước đầu xác định Nguyễn Thị Tuyết đã tham gia tổ chức “Chính phủ Quốc gia Việt Nam lâm thời” ở nước ngoài do Đào Minh Quân là Thủ tướng tự phong cầm đầu. Tổ chức này từng có nhiều hoạt động khủng bố tại Việt Nam.
Thông qua mạng xã hội và điện thoại, Nguyễn Thị Tuyết đã gửi và nhận nhiều tài liệu từ tổ chức khủng bố “Chính phủ Quốc gia Việt Nam lâm thời”. Tại địa phương, Tuyết đã vận động nhiều người dân tham gia trưng cầu dân ý bầu cho Đào Minh Quân làm Tổng thống “Đệ tam Việt Nam cộng hòa”.
Khám xét nơi ở của Nguyễn Thị Tuyết, Cơ quan điều tra thu giữ được 4 cuốn sổ viết tay, 2 bộ tài liệu giấy và nhiều tài liệu điện tử trong máy tính cá nhân của đối tượng này. Nội dung các tài liệu trên đều liên quan đến hoạt động cho tổ chức “Chính phủ Quốc gia Việt Nam lâm thời”.
Bước đầu Nguyễn Thị Tuyết đã thừa nhận mọi hành vi vi phạm pháp luật của mình.
Vụ án đang tiếp tục được Cơ quan An ninh điều tra - Công an tỉnh Lâm Đồng điều tra làm rõ.
Khắc Lịch

Thứ Ba, 23 tháng 4, 2019

XUYÊN TẠC LỊCH SỬ CHÍNH LÀ PHÁ HOẠI TƯƠNG LAI

Tom Polgar, nhân viên cao cấp tòa đại sứ Mỹ ở Việt Nam, một trong những người Mỹ cuối cùng di tản khỏi Việt Nam, sau này đã viết: “Ai không học được gì ở lịch sử, bắt buộc sẽ phải lặp lại sai lầm trong lịch sử”. Thế mà đáng tiếc, 44 năm trôi qua kể từ ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc được thống nhất, vẫn còn có những ý kiến sai lệch, xuyên tạc lịch sử. Họ chẳng những đi ngược tinh thần khép lại quá khứ, hướng tới tương lai mà còn khoét sâu những vết thương bởi mù quáng và bạo tàn. Hành động của họ xét cho cùng cũng chính là sự phá hoại tương lai…

XUYÊN TẠC LỊCH SỬ CHÍNH LÀ PHÁ HOẠI TƯƠNG LAI

Xuyên tạc, đánh tráo, xóa nhòa lịch sử

Cứ đến dịp kỷ niệm 30/4 hằng năm, lại xuất hiện những cụm từ cũ rích, cố tình tô vẽ lại những quan điểm sai lầm. Gần đây, trên một trang xưng là của cộng đồng người Việt ở nước ngoài vẫn nhắc lại những từ ngữ như “tháng Tư là tháng “vo gạo bằng nước mắt”, “mùa quốc hận - tháng tư đen””. Nhiều trang mạng viết coi cuộc kháng chiến thực chất chỉ là nội chiến, là chiến tranh ủy nhiệm, chiến tranh ý thức hệ nên không có gì đáng tự hào. Một số ít người tự cho mình là cấp tiến, tùy tiện phán xét quá khứ, cho rằng kỷ niệm ngày chiến thắng không phải là một việc “tử tế”.
Cù Huy Hà Vũ, kẻ sinh ra trong một gia đình cách mạng, từng bị tòa án tuyên án khi bóp méo sự thật về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, gây chia rẽ, thù hằn dân tộc. Gần đây, khi sang Mỹ, Vũ phát ngôn cho rằng, hòa hợp dân tộc không dừng ở hòa hợp giữa hai bên “thắng cuộc” và “thua cuộc” mà còn là hòa hợp giữa những nhà dân chủ với chính quyền hiện nay. Chỉ khi nào “chế độ cộng sản sụp đổ, người Việt mới có hòa hợp, hòa giải”. Nguyễn Lân Thắng, “kẻ đốt đền” trong một gia đình khoa học thì lại muốn nổi tiếng bằng những lời xảo ngôn: “Mình mong ngày 30/4 sẽ chuyển thành ngày tưởng niệm những mất mát của dân tộc, đừng nói chuyện ai thắng, ai thua”. Lý Thái Hùng, kẻ tự xưng là “tổng bí thư” của tổ chức khủng bố Việt Tân gần đây đã hô hào biến ngày 30/4 từ “quốc hận” trở thành “tinh thần quốc kháng” để chống lại chế độ cộng sản.
Tháng 9/2018, tại Washington (Mỹ), cái gọi là “tập hợp vì dân chủ cho Việt Nam” đã tổ chức hội thảo có chủ đề “Nhìn lại chiến tranh Việt Nam” và đưa ra một số luận điểm bịa đặt, biện hộ cho cuộc chiến tranh phi nghĩa. Họ kêu gọi: “43 năm qua, Việt Nam vẫn chưa có tự do, vẫn chưa có dân chủ. Thành ra sứ mệnh của người trẻ tại hải ngoại sẽ phải tiếp tục đồng hành, tiếp tục tranh đấu cho tự do và dân chủ”.
Xung quanh bộ phim tài liệu 10 tập The Vietnam War (Chiến tranh Việt Nam) được Mỹ công chiếu, một số người trong nhóm “Văn đoàn độc lập” đã xét lại lịch sử: “Có nhất thiết phải qua chiến tranh mới giành được độc lập không? Giá chúng ta tìm một con đường khác ít xương máu hơn cho nền độc lập của đất nước thì quý biết nhường nào?”. “Nếu không cần chống Mỹ, miền Nam có giàu như Hàn Quốc không?”.

Không thể phủ nhận sự thật và đảo ngược chân lý

Để xem xét lịch sử thì cần phải có cái nhìn toàn diện, khách quan, tôn trọng sự thật. Cho dù cuộc kháng chiến đã lùi xa 44 năm hay lâu dài hơn nữa thì lịch sử dân tộc và thế giới đều ghi nhận và chúng ta phải luôn khẳng định, tự hào về thắng lợi của một cuộc kháng chiến chính nghĩa, trường kỳ, vĩ đại vì nền hòa bình, độc lập, tự do của Tổ quốc. Đúng như Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ IV, đại hội đầu tiên sau ngày đất nước thống nhất đã ghi rõ: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ 20, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Nhà sử học người Pháp, kiêm chuyên gia nghiên cứu về lịch sử Đông Dương Alain Rusco cho rằng, sự kiện 30/4 “gây tiếng vang lớn trên trường quốc tế về một dân tộc không chịu khuất phục trước quân thù… để có được chiến thắng này hàng triệu người dân Việt Nam đã ngã xuống trong nhiều thập kỷ đầy cam go, quyết liệt”.
Gần đây, trả lời báo chí về bộ phim tài liệu The Vietnam War, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng khẳng định: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam mang tính chính nghĩa, phát huy được truyền thống sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc, được bạn bè và nhân dân thế giới hết sức ủng hộ. Chính vì thế đã đi đến thắng lợi cuối cùng và thống nhất đất nước”.
Trong cuốn hồi ký “Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đúc kết một trong những đặc điểm nổi bật về cuộc kháng chiến là: “Cả nước đánh Pháp, đánh Mỹ, không phân biệt tiền tuyến, hậu phương. Ý chí thống nhất Tổ quốc là thế và lực mạnh trong chiến tranh. Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Chiến trường Việt Nam là một. Cả dân tộc kết thành một khối trong tình đồng bào cùng chung giống nòi Hồng Lạc, không thể cắt chia. Thù nhà nợ nước là chung của cả dân tộc…”. Những kẻ ngày nay xuyên tạc cho rằng bên này, bên kia mới là thắng cuộc, bên này mới là giải phóng bên kia… chẳng những không hiểu cội nguồn lịch sử mà còn xúc phạm xương máu cha ông.
Trên thực tế, chính những người trong cuộc là Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũng đều đã thừa nhận tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam; chỉ một bộ phận chống cộng, mang nặng hận thù và những kẻ “tự diễn biến”“tự chuyển hóa” ngày nay mới tin vào những luận điệu như chiến tranh ý thức hệ, nội chiến hay quan điểm lập lờ “bên nào thắng thì nhân dân đều bại”(!).
Chính Robert McNamara, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, người được xem là “kiến trúc sư” của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam đã rút ra 11 “sai lầm một cách tồi tệ”, đáng chú ý nhất là đã lẫn lộn cuộc đấu tranh ý thức hệ với cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc của cả một dân tộc. Ông viết: “Chúng ta (Mỹ) đã đánh giá sai khi đó (và từ đó đến nay) những chủ đích địa chính trị của các đối thủ là mở rộng làn sóng đỏ xuống Đông Nam Á và chúng ta đã phóng đại những mối nguy hại từ hành động của họ đối với nước Mỹ”.
Henry Kissinger, cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ viết: “Hà Nội chỉ chiến đấu với một lẽ duy nhất, đó là lòng yêu nước của họ. Và một nước Việt Nam thống nhất dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản Việt Nam, chiến thắng vào năm 1975…”.
Theo các tài liệu mới được giải mật của chính quyền Mỹ, ngày 27/9/1948, trong một văn kiện của Bộ Ngoại giao Mỹ xác định mục tiêu lâu dài của Mỹ là “thủ tiêu ở mức tối đa có thể được ảnh hưởng của cộng sản ở Đông Dương, Mỹ muốn thấy Việt Nam và Đông Dương có một nhà nước dân tộc chủ nghĩa tự trị thân Mỹ”. Ngày 30/12/1949, Tổng thống Mỹ S.Truman phê chuẩn một văn kiện của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ, trong đó nêu rõ: “Mục tiêu lâu dài của Mỹ là thủ tiêu ở mức độ tối đa có thể được ảnh hưởng của cộng sản ở Việt Nam và Đông Dương... Mỹ muốn thấy ở Việt Nam và Đông Dương có các nhà nước chống cộng, thân Mỹ”. Điều này cũng được Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhắc lại nhân kỷ niệm 35 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước: “Bác Hồ đã sớm nhìn thấy âm mưu đen tối của Mỹ. Từ 1950, Bác đã chỉ ra sự dính líu và can thiệp của Mỹ vào chiến tranh Ðông Dương. Ðể tranh thủ hòa bình, Bác đã 11 lần gửi thư cho Tổng thống Mỹ S.Truman...” nhưng không có phản hồi.
Giáo sư Trần Chung Ngọc, một người Mỹ gốc Việt, một cựu quân nhân trong quân lực Việt Nam cộng hòa từng có nhiều bài viết phân tích sâu sắc về cuộc chiến tranh. Ông viết: “Mỹ không có lý do nào chính đáng để can thiệp vào Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975. Mỹ đã bất kể đến công pháp quốc tế, không dựa trên pháp lý mà dựa trên “luật rừng” và “cường quyền thắng công lý” để can thiệp vào Việt Nam với ý đồ “bành trướng thế lực và ảnh hưởng trên toàn khu vực”…

Quá khứ - dòng máu Lạc Hồng tạo nên nhân cách

Một trong 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ mà Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII chỉ ra là: “Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước”. Mỗi cán bộ, đảng viên và người dân cần hết sức tỉnh táo để phát hiện, ngăn chặn.
Không chỉ cán bộ, đảng viên mà mỗi người dân yêu nước Việt Nam cũng cần phải có tiếng nói đúng với lương tâm và lẽ phải. Quá khứ không chỉ là lịch sử mà còn là hành trang, là sức mạnh tinh thần, là dòng máu Lạc Hồng tạo nên nhân cách của mỗi người dân đất Việt. Nếu quên tổ tiên, quên công lao của thế hệ đi trước, quên những hy sinh cao cả vì độc lập, tự do của dân tộc thì không thể là người Việt Nam chân chính. Phẫn nộ với ý kiến cho rằng “không cần chiến tranh sau này đất nước vẫn giàu mạnh”, nhà sử học người Mỹ gốc Việt Nguyễn Mạnh Quang đã viết: “Trừ phi không biết hoặc thuộc loại phản quốc, khi có một nước khác đến ngồi trên đầu làm chủ, không có một người dân tử tế nào bằng lòng chờ cho có ngày bọn thực dân tự động trả lại cơ đồ ông cha mình cả. Nếu theo luận điệu ươn hèn như trên, thì những công lao và sự hy sinh của hàng triệu anh hùng nghĩa sĩ trong các lực lượng nghĩa quân kháng chiến của nhân dân ta trong đại cuộc đánh đuổi giặc Pháp ngoại xâm từ năm 1858 đến 1954 đều là vô ích hay sao! Và hàng triệu anh hùng nghĩa sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến 1954 - 1975 để đòi lại miền Nam trong tay Mỹ, đem lại thống nhất cho đất nước cũng là vô ích hay sao! Ðưa ra luận điệu này là tỏ ra vô ơn với hàng triệu anh hùng nghĩa sĩ đã ngã xuống cho Tổ quốc Việt Nam được trường tồn”.
Trên thực tế, đã có rất nhiều tiếng nói từ những người ở phía bên kia chiến tuyến sau này thừa nhận sai lầm của họ và ghi nhận chiến thắng vĩ đại của cả dân tộc cũng như chiến công của những người cộng sản. Tướng Nguyễn Hữu Có, phó thủ tướng kiêm tổng trưởng quốc phòng Việt Nam cộng hòa, sau này trả lời phóng vấn Báo Pháp luật TP Hồ Chí Minh, nói: “Chiến thắng 30/4 rất vĩ đại, là chiến thắng của sức mạnh toàn dân tộc Việt Nam... Không còn chiến tranh, không còn bom rơi đạn nổ trên quê hương mình là điều lớn nhất mà việc kết thúc chiến tranh mang lại”. Cựu thủ tướng Việt Nam cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ nhận xét về việc gọi ngày 30/4 là “quốc hận” và đòi “phục quốc”: “Thống nhất xứ sở là nhiệm vụ lịch sử của mỗi một người con Việt Nam nhưng chúng tôi đã không làm được. Những người anh em phía bên kia đã làm được, phải chấp nhận đó là lịch sử và đất nước đã được thống nhất rồi. Vậy mà còn quay ra nói phục quốc? Nước Việt Nam có mất cho Tây... đâu mà phục quốc?”.

Bài học cho tương lai

Ngay cả những người Mỹ đương đại cũng luôn nhìn lịch sử với sự tôn trọng để rút ra bài học cho tương lai. Trong bài thuyết trình “Cuộc chiến đã qua đi: Hồi ức và bài học lịch sử” trình bày tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh năm 2018, Giáo sư D.G.Faust, Hiệu trưởng Trường Đại học Harvard nói: “Lịch sử soi rọi những sự mù quáng và tàn bạo đã làm nên chiến tranh. Nó giúp chúng ta hình dung và đấu tranh cho hòa bình”.
Chúng ta cũng có thể tham khảo được nhiều bài học từ nước Nga. Sau khi Liên Xô tan rã, đã xuất hiện nhiều tiếng nói phủ nhận những thành tựu thời Xô viết, xét lại Cách mạng Tháng Mười, coi đó như một cuộc đảo chính man rợ, coi chế độ Xô viết như chủ nghĩa phát xít… Thế nhưng sau đó, chính quyền từ thời Tổng thống Nga Putin đã nhanh chóng bác bỏ những quan điểm sai trái trên, tiếp tục đề cao các giá trị truyền thống tốt đẹp thời Xô viết, coi đó là niềm tự hào chung để cố kết dân tộc Nga, tăng thêm sức mạnh. Phê phán những quan điểm sai trái, một bài báo từ hãng thông tấn Sputnik của Nga khẳng định: Không có chính quyền dân chủ nào được lập nên trên đầu mũi súng và không có nền dân chủ nào lại xúi giục những người anh em trong cùng một đất nước bắn giết lẫn nhau, dối trá và phỉ báng lịch sử của mình.
Sự dối trá, hèn hạ phỉ báng lịch sử, khơi gợi hận thù để lặp lại sai lầm, kích động mâu thuẫn… không chỉ là hành động vô luân, vô ơn với tiền nhân, với người hy sinh vì hòa bình, độc lập, thống nhất mà còn là sự phá hoại tương lai của dân tộc. Chúng ta phải kiên quyết lên án, xóa bỏ những tư tưởng ấy để “mở nền thái bình muôn thuở”, “dập tắt chiến tranh muôn đời”.   
NHẤT MINH

NGÀY THỨ HAI MƯƠI…

Hai mươi ngày qua, mạng xã hội đã bùng lên với biết bao sự kiện xã hội: danh sách thí sinh gian lận điểm thi, 3 vụ buôn bán hàng tấn ma túy… Lẫn trong bao nhiêu sự kiện đó, vụ dâm ô trẻ em với cái tên Nguyễn Hữu Linh, cựu Phó Viện trưởng VKSND Đà Nẵng không hề nguội hay chìm bởi những đợt sóng dư luận khác trùm lên.

NGÀY THỨ HAI MƯƠI…


1. Ngày thứ mười chín, nếu tính từ thời điểm Cơ quan CSĐT Công an quận 4, TP Hồ Chí Minh nhận được thông tin tố giác hành vi dâm ô tại thang máy chung cư Galaxy 9… Nhưng là ngày thứ hai mươi, nếu tính từ thời điểm vụ việc xảy ra (đêm 01/4/2019).
Hai mươi ngày qua, là hai mươi ngày đếm ngược. Một tâm lý căng thẳng, nóng lòng bao trùm hầu khắp mạng xã hội và dư luận nhân dân.
Hai mươi ngày qua, mạng xã hội đã bùng lên với biết bao sự kiện xã hội: danh sách thí sinh gian lận điểm thi, 3 vụ buôn bán hàng tấn ma túy… Lẫn trong bao nhiêu sự kiện đó, vụ dâm ô trẻ em với cái tên Nguyễn Hữu Linh, cựu Phó Viện trưởng VKSND Đà Nẵng không hề nguội hay chìm bởi những đợt sóng dư luận khác trùm lên.
Ngược lại, nó vẫn nổi cộm và càng đến hạn chót (20 ngày, tính từ ngày nhận được tố giác, cơ quan điều tra buộc phải ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố hình sự), sự việc càng bùng lên. Không chỉ là các phân tích, ý kiến chuyên gia mà hình ảnh của kẻ ấu dâm trẻ em xuất hiện tràn lan trên mạng xã hội và các đường phố, khu dân cư ở Đà Nẵng, một biểu thị cho thấy sự bức xúc, phẫn nộ cao điểm của người dân. Ngay Ủy ban Tư pháp - một cơ quan chuyên trách của Quốc hội cũng phải họp bàn “mổ xẻ” với sự hiện diện của lãnh đạo liên ngành tư pháp Trung ương.

2. Khởi tố hay không khởi tố, đó không còn là ý chí của cơ quan tố tụng thẩm quyền ở địa phương. Không còn là ý chí của một cá nhân cụ thể nào. Đó đã là chí nguyện, là yêu cầu của người dân. Ấy là bởi hai lẽ: tội phạm xâm hại tình dục, đặc biệt tình dục trẻ em, đang diễn ra rất phức tạp, ám ảnh mọi gia đình và đây là vụ việc điển hình.
Thứ hai, chủ thể tội phạm là cựu lãnh đạo trong cơ quan bảo vệ pháp luật, đòi hỏi phải xử lý nghiêm khắc. Clip ghi nhận tại thang máy là bằng chứng hành vi phạm pháp “không thể chối cãi”, trong khi clip về một vụ dâm ô tương tự xảy ra trong ngõ hẻm tại Hà Nội đã được khởi tố, điều tra.

3. Ở một vụ việc điển hình như thế này, đã, đang có những hành vi lợi dụng để “mượn gió bẻ măng”, miệt thị chế độ, bôi nhọ nền tư pháp. Nhưng trước hết, cơ quan bảo vệ pháp luật phải chứng minh được sự nghiêm minh, khách quan trong thực thi luật pháp, chứng minh công lý không loại trừ bất cứ ai, ấy là cách rõ ràng nhất để yên dân, để phản bác lại các luận điệu vin cớ, miệt thị nói trên.
Khởi tố, đó mới chỉ là quyết định khởi đầu cho một quy trình tố tụng, còn khá dài để đi đến kết luận, phán xử. Nhưng quyết định khởi đầu đó cũng chính là quyết định có tính chất mấu chốt, tháo gỡ điểm nghẽn trong tố tụng và đặc biệt, nó tháo gỡ nút thắt vốn đang gây phẫn nộ dư luận hai mươi ngày qua.
Thay vào đó, là niềm tin được củng cố vào nền pháp quyền mà chúng ta đang xây dựng./.
Đăng Minh

Chủ Nhật, 21 tháng 4, 2019

GIÁ TRỊ TRƯỜNG TỒN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ BẢN DI CHÚC TRONG LỊCH SỬ


Trong lịch sử hiện đại và trong số các vị lãnh tụ cách mạng trên thế giới, Hồ Chí Minh là một người đặc biệt. Những người yêu chuộng tự do, hoà bình trên thế giới đều gọi Hồ Chí Minh là Bác Hồ.

GIÁ TRỊ TRƯỜNG TỒN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ BẢN DI CHÚC TRONG LỊCH SỬ

Bạn bè quốc tế vẫn nói: người Việt Nam thật hạnh phúc vì có Bác Hồ. Dân mình, Đảng mình, nước mình tự hào về Bác, có Bác. Bác là chỗ dựa tinh thần, tình cảm, tâm linh và niềm tin tất thắng. Các thế hệ nguyện xứng đáng là con cháu, đồng chí và học trò tin cậy của Người.
Người đã hoàn thành đầy đủ sự nghiệp của đời mình, cũng chính là sự nghiệp của dân tộc Việt Nam và của cả loài người tiến bộ. Vượt lên tất cả, khi mất đi, Hồ Chí Minh không phải là một kỷ niệm của quá khứ, Người sống mãi. Người cùng những cống hiến và phẩm cách cao quý của mình gắn liền với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa của loài người mà đỉnh cao là học thuyết Mác - Lênin - ánh sáng tư tưởng của thời đại trở nên diệu kỳ trong ký ức tất cả mọi thời đại. Cùng với thời gian, di sản tư tưởng của Người và bản Di chúc “hiện nay và mai sau, không chỉ là của riêng nhân dân Việt Nam, mà còn dành cho tất cả các dân tộc, các Đảng đấu tranh về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, dù ở châu Á, châu Âu hoặc bất cứ nơi nào trên các lục địa”.

1. Di chúc - Lời dặn lại đầy tâm huyết

Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá kiệt xuất, một trong những vĩ nhân của thế kỷ XX đã yên nghỉ 50 năm, song di sản tư tưởng, tinh thần lớn lao hàm chứa trong từng trước tác của Người vẫn đang cùng dân tộc Việt Nam đồng hành trong những thiên niên kỷ mới. Một trong số những di sản đó chính là lời dặn lại đầy tâm huyết, tiếng nói khiêm nhường của một người cộng sản, thấm đẫm chất nhân văn, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc và thời đại có giá trị vượt không gian và thời gian - Bản Di chúc lịch sử.
“Tài liệu tuyệt đối bí mật” được Người khởi thảo tại Hà Nội, vào dịp sinh nhật lần thứ 75 (tháng 5/1965). Trong những năm tiếp sau đó, cũng vào dịp kỷ niệm ngày sinh, Người lại đọc, suy ngẫm, trăn trở để chỉnh sửa, bổ sung vào những “lời dặn lại” đặc biệt của mình, cho đến khi trái tim đó ngừng đập vĩnh viễn vào lúc 9 giờ 47 phút ngày 02/9/1969.
Không chỉ suốt đời tận tụy, phấn đấu cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, Hồ Chí Minh còn mang theo khát vọng về một đất nước Việt Nam độc lập, hoà bình, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, cùng một thế giới hạnh phúc cho con người vào cõi vĩnh hằng. Chuẩn bị cho chuyến đi xa vĩnh viễn của mình, một Hồ Chí Minh khi còn anh minh, tỉnh táo đã dành mỗi ngày khoảng từ 1 đến 2 giờ của những ngày tháng 5 đẹp trời (từ năm 1965 đến năm 1969) để viết “Tài liệu liệu tuyệt đối bí mật” gửi lại cho mai sau. Và cũng trong những năm cuối của đời mình, một Hồ Chí Minh bộn bề công việc, đang bận lòng với nỗi đau trước mắt đã xót xa một nỗi đau chôn vùi trong lòng đất mẹ, bỗng về thăm tiền nhân, tưởng nhớ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, giữa những ngày miền Bắc đang chống chọi cùng mưa bom, bão đạn của giặc Mỹ (1965). Thăm đền thờ, dừng lại hồi lâu đọc những dòng chữ trên văn bia, leo lên Thạch Bàn…người đầy tớ trung thành của nhân dân dường như đã lường trước được quy luật khắc nghiệt của tạo hoá. Tự ý thức một cách tích cực về bản thân mình, với phong cách ung dung, tự tại vốn bắt nguồn từ chỗ nắm được quy luật vận động của cuộc đời, biết rõ điều gì ắt sẽ qua đi, điều gì ắt sẽ đến và điều gì là trường tồn phải còn mãi, Hồ Chí Minh gửi những suy tư trĩu nặng của tiền nhân “là theo đức hiếu sinh để toàn vẹn cho sự sống còn của nhân dân” của mình vào những lời cuối cùng để lại cho hậu thế.
Giờ đây, mỗi khi lật giở lại những trang bản thảo, những bút tích chỉnh sửa, bổ sung của Người trong bản Di chúc thiêng liêng như một Cương lĩnh hành động ngày nào, dường như vẫn thấy một Hồ Chí Minh đang cẩn trọng, cân nhắc từng ý, từng việc, để cô đọng nhất những trăn trở, những điều cần phải dặn lại. Đó là những vấn đề quan trọng, cần thiết phải làm, nhằm đảm bảo vai trò lãnh đạo cách mạng của một Đảng cầm quyền, đồng thời đưa đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong cuộc đấu tranh chung, vì độc lập dân tộc và những tiến bộ xã hội. Đó cũng chính là những dòng chữ cuối cùng của người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá lớn, người chiến sĩ quốc tế nặng lòng vì Đảng, vì dân, vì tình đoàn kết giữa các Đảng anh em và các dân tộc đang đấu tranh cho công lý.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho một lá cờ, cho “một sự giải phóng ở bề mặt bên ngoài”, Người hiến dâng cuộc đời mình cho cuộc chiến đấu vì phẩm giá và quyền của con người, cho sự giải phóng hoàn toàn. Trong tư tưởng và tình cảm của Người, nhân dân yêu chuộng hoà bình và công lý, nhân dân tiến bộ thế giới là anh em của nhau: “Tất cả những người có lương tri trên thế giới đều nhìn thấy ở Nguyễn ái Quốc - “Người yêu nước”, ở Hồ Chí Minh - “Người chiếu sáng”, ở Bác Hồ - “Vị Chủ tịch kính mến”. Vì vậy, Người và Di chúc của Người tuy kết tinh tư tưởng, văn hoá, tâm hồn, đạo đức Việt, song “vẫn thuộc vào gia tài của nhân loại, cái gia tài của mọi dân tộc yêu tự do, giải phóng đã phải tiến hành đấu tranh chống lại ách thực dân hay đế quốc”, nhằm thực hiện khát vọng làm người cao cả nhất.

2. Di chúc - Cương lĩnh xây dựng lại đất nước

Thâu thái những hiểu biết quý báu của các đời trước để lại, Hồ Chí Minh luôn cởi mở tiếp thu để làm giàu vốn tri thức của bản thân mình không chỉ trở thành “một nhà tiên tri châu á báo trước công cuộc giải phóng của các dân tộc bị áp bức”, khổ đau, Người còn nhìn thấy và dặn lại trước những công việc cần thiết phải thực hiện để xây dựng lại một nước Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn trong tương lai.
Trong Di chúc, khát vọng và niềm tin tất thắng của lãnh tụ Hồ Chí Minh về cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp hoà bình thế giới dồn nén, chứa chất chỉ trong mấy lời, và niềm tin đó không phải chỉ được nhắc một lần: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn” và dù phải hy sinh nhiều của, nhiều người nhưng “Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất”, “đồng bào Nam Bắc nhất định sum họp một nhà”. Theo Người, thắng lợi đó của dân tộc ta là vinh dự , vì “đã anh dũng đánh thắng 2 đế quốc to - là Pháp và Mỹ và góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc”.
Tiếp đó, với phép xử thế của một nhà văn hoá lớn, là biểu tượng kết tinh truyền thống lịch sử và văn hoá của dân tộc Việt có hàng ngàn năm văn hiến, Hồ Chí Minh “có ý định đến ngày đó” sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc chúc mừng đồng bào và chiến sĩ cả nước, và thay mặt nhân dân Việt Nam “đi thăm và cảm ơn” bè bạn quốc tế đã “tận tình ủng hộ và giúp đỡ” cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Tuy nhiên, là Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, bằng dự cảm của riêng mình, Hồ Chí Minh thấu hiểu rằng, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với sự trưởng thành ngày càng vững mạnh của Đảng - đội tiền phong của giai cấp và của dân tộc Việt Nam, nên đã dành những điều “trước hết nói về Đảng” và yêu cầu “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”.
Ghi nhận nguồn sức mạnh nội lực làm nên sức mạnh của Đảng chính là sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Người và tất cả mỗi người cán bộ, đảng viên của Đảng đều nhận thức được rằng: đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết và đoàn kết làm nên thành công, nên đã luôn cố gắng giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Tuy nhiên, cũng đã có những thời điểm, những con người, vì nhiều lý do khác nhau, đã quên đi lý tưởng và lời thề cộng sản, xa rời đạo đức cách mạng, phá hoại khối đoàn kết “muôn người như một” của Đảng. Vì vậy, Người nhấn mạnh: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”, đồng thời, yêu cầu “trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình”. Theo Người, đó không chỉ là nhiệm vụ trọng yếu, là yêu cầu bức thiết của Đảng cầm quyền trước mỗi bước chuyển của cách mạng, mà còn là cách tốt nhất để “củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”, để Đảng trong sạch, khoẻ mạnh, để “dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.
Những lời dặn thiết tha, đậm chất nhân văn trong Di chúc chứa đựng những giá trị tư tưởng, tinh thần cao quý của cuộc đời Hồ Chí Minh, từ cuộc đời Hồ Chí Minh. Theo Người, dù đã có những đóng góp nhất định, song để thật sự trong sạch, “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”, mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn viên và thanh niên phải hết lòng tận trung với nước, tận hiếu với dân, phải thấm nhuần và nâng cao “đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”, và vượt lên hết thảy là phải sống với nhau có tình, có nghĩa, có “tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Và cũng theo Hồ Chí Minh, để rời xa những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, để làm mực thước cho dân, cán bộ, đảng viên nhất định phải thường xuyên tiến hành tự phê bình và phê bình.
Song cũng theo Người, phê bình và tự phê bình phải trên cơ sở “tình đồng chí” thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, làm cho điều thiện sinh sôi, điều ác thui chột, để tiến bộ và vững vàng trước mọi cám dỗ, thử thách. Đó không phải không phải đập cho tơi bời, hả giận, đó chính là có lý, có tình, chân thành, thẳng thắn, là văn hoá Đảng, là bản chất tâm hồn và đạo đức dân tộc Việt mà Hồ Chí Minh mong mỏi và gửi lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.
Sau những điều tâm huyết về Đảng, người cộng sản đầy kinh nghiệm Hồ Chí Minh đã nhắc đến việc chăm lo lực lượng kế cận của cách mạng. Người dành những dòng thiết tha cho thế hệ trẻ, khen ngợi đoàn viên, thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi... đã đóng góp công sức của mình trong sự nghiệp cách mạng và yêu cầu, “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”. Theo Người, “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết, bởi không chăm lo cho thế hệ trẻ, không tạo dựng một lực lượng kế tục có đức và có tài, sẽ không có những con người XHCN để xây dựng thành công CNXH và CNCS như Lênin từng khẳng định.
Tư tưởng và mục đích cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh xuất phát từ con người và cuối cùng trở về với con người. Bởi lẽ vậy, như một lẽ tự nhiên, trong những lời để lại, Người đặc biệt quan tâm đến con người và những “công việc với con người”. Người cũng chỉ rõ, khi đất nước đã trải qua những năm dài chiến tranh, việc hàn gắn những vết thương của thời hậu chiến là công việc đầy nặng nề, phức tạp nhưng cũng rất vẻ vang, nên Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân lao động ở miền núi cũng như miền xuôi. Những đề nghị của Người về miễn thuế nông nghiệp 1 năm, để “đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”; về xây dựng lại thành phố, làng mạc; về xây dựng những vườn hoa, bia tưởng niệm các liệt sĩ, “để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta”... thực sự thiết thực, cụ thể, đầy tính nhân văn.
Một Hồ Chí Minh đầy bao dung nhân ái, mà lòng thương yêu đối với nhân dân và nhân loại không bao giờ thay đổi đã dành tình thương yêu của mình cho hết thảy mọi người. Đó là những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình; những liệt sĩ, cha mẹ vợ con của thương binh, liệt sĩ; những chiến sĩ trẻ, những phụ nữ, những thanh niên xung phong,v.v..Và với họ, Người mong mỏi Đảng và các cấp chính quyền chăm lo, tạo điều kiện giúp họ được sống yên ổn, có công việc làm ăn thích hợp, để góp sức mình cho công cuộc xây dựng lại đất nước. Còn đối với những con người từng lầm lỗi, lạc đường, hoặc là nạn nhân của chế độ cũ (như trộm cấp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, v.v..), Hồ Chí Minh tâm niệm, dù là ai, họ cũng mang dòng máu Việt, cũng có nguồn cội, nên lấy lòng nhân, khoan dung độ lượng, hướng về lẽ phải chân chính mong mỏi “cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”.
Như một Cương lĩnh hành động của một Đảng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với tình hình và nhiệm vụ cách mạng được giao phó, những chỉ dẫn của Người trong “Tài liệu tuyệt đối bí mật”- không mang tính áp đặt, những vẫn được toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đồng tâm, đồng lòng thực hiện. Bởi rằng, đối với một Đảng cầm quyền, việc quan tâm đến những lợi ích thiết thực hàng ngày của mỗi người dân, cổ vũ họ, chia sẻ với họ, cũng chính là chăm lo đến quyền con người, phát huy quyền làm người của mỗi người. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh thấu hiểu rằng, động lực để thực hiện khát vọng: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chính là nhân dân lao động. Lòng yêu nước, thương dân, thương nhân loại khổ đau của Người trong Di chúc dành lại cho muôn đời con cháu mai sau thể hiện sự quan tâm của Người đến lợi ích của từng con người và lợi ích của cả cộng đồng. Đó cũng chính là sự biểu đạt đặc sắc của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, của nhà văn hoá lớn Hồ Chí Minh, suốt đời không mang danh lợi, chỉ khôn nguôi một hoài bão: Độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho đồng bào.

3. Di chúc - lời dặn khiêm nhường của người cộng sản

Hồ Chí Minh không chỉ là lãnh tụ của nhân dân Việt Nam, Người còn “là một nhà cách mạng trung thành với chủ nghĩa quốc tế vô sản và đã đóng góp to lớn vào sự đoàn kết các nước xã hội chủ nghĩa, vào việc củng cố và phát triển phong trào cộng sản”. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh không chỉ là một người cộng sản Việt Nam mẫu mực, Người còn là người chiến sĩ cộng sản quốc tế trong sáng, thuỷ chung, luôn quan tâm đến sự phát triển chung của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Khơ rútxốp trong Hồi ký của mình từng viết: Hồ Chí Minh là “vị thiên sứ cách mạng”, là “vị thánh cộng sản”, bởi những hoạt động không mệt mỏi của Người cho phong trào cộng sản quốc tế.
Không phải ngẫu nhiên, trong Di chúc, khi viết về phong trào cộng sản quốc tế, Hồ Chí Minh viết: “Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hoà hiện nay giữa các đảng anh em”. Người chiến sĩ cộng sản quốc tế Hồ Chí Minh đã có những đóng góp tích cực cho phong trào cách mạng thế giới. Người đã từng nhiều lần cảnh báo sự không quan tâm đúng mức về mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa với phong trào cách mạng vô sản ở chính quốc tại các diễn đàn quốc tế; Người cũng từng trên nền tảng của chủ nghĩa Mác- Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình, hết lòng hàn gắn những mâu thuẫn trong phe XHCN, bởi Người nhận thức sâu sắc rằng: Mối bất hoà, mâu thuẫn Xô -Trung và sự rạn nứt trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế là một tổn thất to lớn của sự nghiệp cách mạng thế giới. Theo Người, những bất đồng, chia rẽ đó không chỉ làm giảm đi nguồn sức mạnh của sự nghiệp đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng con người, mà còn chia rẽ khối đoàn kết, nhất trí của các lực lượng dân chủ, yêu chuộng hoà bình, tiến bộ trên thế giới; đồng thời tạo điều kiện để đế quốc Mỹ lợi dụng tình hình, mở rộng cuộc chiến tranh ở Đông Dương và sự không thống nhất trong hành động ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược.
Do đó, trước khi đi xa, Hồ Chí Minh đã rất đau lòng trước những tồn tại đang diễn ra trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Và cũng biết rằng mình không thể tiếp tục làm vị “thiên sứ cách mạng”, Hồ Chí Minh đã gửi những ưu phiền vào Di chúc và mong ước: đó là một nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động đối ngoại của Đảng, để “góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết” quý báu giữa các đảng anh em. Với tinh thần quốc tế vô sản cao cả đó, “Bác Hồ cùng với bản Di chúc của Người là thuộc về tất cả phong trào cộng sản, công nhân và cách mạng trên thế giới. Người được liệt vào những bậc mà thân thế và sự nghiệp đã vượt ra ngoài phạm vi biên giới của Tổ quốc mình”.
Khiêm nhường trong vị thế một nguyên thủ quốc gia, một Hồ Chí Minh cũng rất giản dị trên cương vị một lãnh tụ của nhân dân Việt Nam. Bao giờ và ở đâu, cũng vẫn ngời sáng một Hồ Chí Minh tấm gương của đạo đức cách mạng, chí công vô tư. Phút cuối của đời mình, sau khi dành tâm tư, tình cảm cho Đảng, cho dân, cho phong trào cách mạng thế giới, ung dung và thư thái, Người để lại mấy dòng cuối cùng trong Di chúc để viết về việc riêng của mình.
Trước Hồ Chí Minh, lịch sử thế giới đã có nhiều bản Di chúc. Nhà khoa học Noben của Thụy Điển trước khi từ giã cõi đời di chúc lại: Toàn bộ tài sản của ông sẽ được gửi vào nhà băng quốc tế. Số tiền lãi dành tặng thưởng cho những cá nhân có đóng góp cho hoà bình và sự tiến bộ của nhân loại. Nhà thơ Ba Lan Ađam Mắcxkiêvích mong muốn, quả tim dù đã ngừng đập của ông sẽ được đưa về Thủ đô Vácxava, với mong ước giản dị: để nó được sống mãi cùng nhịp đập của hàng triệu triệu trái tim người dân Ba Lan. Vua Lý Nhân Tông- một anh quân thời Lý, vốn sống kiệm ước, khi sắp mất cũng có lời di chúc thật khiêm nhường: Ta đã ít đức, không lấy gì làm cho trăm họ được yên vui, làm sao khi chết đi lại để cho nhân dân mình mặc sơ gai, sớm tối khóc than,…vì vậy, việc an táng cần phải tiết kiệm, không xây lăng mộ riêng, nên chôn ngay cạnh Tiên đế.
Một Hồ Chí Minh suốt đời yêu thương nhân dân, vốn giản dị, rất “sáng mà không chói”, khi ra đi, tiếc nuối lớn nhất của Người là “suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Vì vậy, Người mong “chớ nên tổ chức linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân” và yêu cầu được hoả táng. Sau đó ba phần tro cốt của Người để vào 3 hộp sành, như tình yêu thương tha thiết của Người dành cho đồng bào ở cả ba miền Bắc - Trung - Nam...
Sau Hồ Chí Minh, một trong những người bạn thân thiết của Người, nguyên Thủ tướng Chu Ân Lai trước khi vĩnh biệt thế giới đã dặn lại rằng: Khi mất đi, ông muốn được hoả táng. Tư tưởng và tình cảm ông dành cho đất nước, nên mong muốn tro cốt của mình sẽ được nhồi vào đại bác, bắn đi bốn phương tám hướng, để ông được sống cùng non nước Trung Hoa rộng lớn. Và Đức Giáo hoàng John Paul II, trong di chúc của mình cũng dặn lại: Ta không có sản vật gì lưu lại…và xin được “chôn táng dưới đất, chứ không phải trong thạch mộ nổi”.
Vậy là, dù sinh ra ở những hoàn cảnh, thời điểm khác nhau, làm những công việc khác nhau, nhưng giữa họ đều có một điểm chung nhất, đó chính là tư tưởng, tình cảm và tấm lòng của những người con luôn hướng về quê hương đất nước, về con người, hướng về những điều tốt đẹp, thức tỉnh mọi tâm hồn. Với ý nghiã đó, những điều Hồ Chí Minh dặn lại trong Di chúc chứa đựng giá trị tư tưởng và tinh thần, kết tinh từ cuộc đời hoạt động cách mạng không mệt mỏi của một con người “đã trở thành huyền thoại ngay từ khi còn sống”. Tư tưởng và tình cảm đó không chỉ mang lại sự đổi đời cho một dân tộc Việt Nam, mà còn đem lại niềm tin tưởng mãnh liệt và khát vọng vào một ngày mai tươi đẹp cho tất cả các dân tộc yêu chuộng tự do, công lý trên toàn thế giới, vì vậy, “Di chúc của Người đặc biệt có ý nghĩa đối với các lực lượng cách mạng và toàn thế giới tiến bộ”.
Hồ Chí Minh không còn với chúng ta theo nghĩa vật chất. Nhưng Người rất gắn bó với chúng ta về mặt đạo lý, tinh thần. Dùng những ngôn từ giản dị nhất để biểu đạt cái lớn lao của tư tưởng, Di chúc Hồ Chí Minh “là một áng văn tuyệt bút” không dài, là những lời cuối đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc và thời đại, hội tụ trong đó hoài bão và tình cảm của một nhà văn hoá lớn. Phản ánh tâm hồn một nhà cách mạng nhân đạo; trí tuệ, tư tưởng của một nhà hoạt động cách mạng phi thường; lòng vô tư tuyệt đối, tình yêu của Người đối với nhân dân, với thiên nhiên trong Di chúc không có gì so sánh nổi. Và dường như lời cuối của một con người biết nói lên những lời cần nói vào mỗi giai đoạn lịch sử, những lời nói giản dị, đúng mức, không văn hoa nhưng khắc sâu vào trái tim, khối óc của từng người, diễn đạt điều mà mọi người cảm thấy sâu xa nhất trong lòng mình nhưng chưa diễn đạt được, đều hội tụ trong bản Di chúc lịch sử của Hồ Chí Minh.
Mỗi điều Hồ Chí Minh trăn trở, dặn lại trong Di chúc đều chứa chan tấm lòng một hiền nhân đối với con người, với thiên nhiên, với quê hương đất nước, phản ánh tư tưởng, tình cảm, đạo đức và tâm hồn một người con ưu tú của dân tộc Việt; hiện thân tinh thần, tài năng và tâm hồn của người dân Việt; hiện thân của tinh thần yêu tự do tha thiết, bình dị mà vĩ đại, dân tộc mà thời đại. Đó là di sản bất hủ, đậm đà bản sắc dân tộc và thời đại, “là sự thức tỉnh của nhân tâm, của trí tuệ, của dũng khí” Hồ Chí Minh gửi lại cho các thế hệ mai sau. Cuộc đời Người, với những gì Người đã đi, đã đến và chiến thắng; với tất cả những gì Người đã làm, đã nêu gương và để lại, có lý và có tình, sẽ sống mãi qua các thời đại.
Dù Người đã đi xa, song trên các trang của lịch sử, cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng và tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh vẫn sẽ vinh quang chói lọi như sao Bắc đẩu. Mưu cầu hạnh phúc cho hết thảy mọi con người, hướng dẫn loài người đi đến một tương lai tốt đẹp hơn, Người và bản Di chúc gửi lại “tiếp tục là nguồn cảm hứng” cho hậu thế, “để không yếu đuối trong đấu tranh giành lấy tương lai, để không dừng lại ở điều đạt được mà luôn luôn tiến lên phía trước”./.

Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2019

XỬ LÝ NGHIÊM SAI PHẠM, TRẢ LẠI SỰ TRONG SẠCH CHO MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤC

Vụ việc gian lận trong kỳ thi THPT Quốc gia tại các địa phương như Hà Giang, Sơn La, Hòa Bình trong những ngày qua lại đang nóng lên trên các mặt báo cũng như mạng xã hội.

XỬ LÝ NGHIÊM SAI PHẠM, TRẢ LẠI SỰ TRONG SẠCH CHO MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤC

Điều đặc biệt khiến dư luận bức xúc là sau khi danh sách những thí sinh được nâng điểm được công khai, trong số đó có trường hợp kỷ lục được nâng khống tới 26,5 điểm để trở thành thủ khoa của Trường Sĩ quan lục quân, trong khi điểm thực chất của thí sinh này chỉ vỏn vẹn 1 điểm cả ba môn.
Đến thời điểm hiện tại, cơ quan chức năng đã xác định có 222 thí sinh bị phát hiện gian lận điểm trong kỳ thi vừa qua, trong đó  có 114 thí sinh tỉnh Hà Giang, 64 thí sinh tỉnh Sơn La và 44 thí sinh tỉnh Hòa Bình. Bằng việc sửa điểm, nhiều trong số những thí sinh đó đã trở thành thủ khoa, á khoa và lọt vào top đầu tại một số trường đại học danh giá.
Sự chiếm chỗ của những trường hợp gian lận này cũng đồng thời tước đoạt đi cơ hội của ngần ấy thí sinh đủ năng lực, thậm chí có cả những nhân tài khắp các địa phương trong cả nước trong kỳ thi THPT Quốc gia năm 2018.
Cho đến thời điểm hiện tại, việc xử lý đối với những trường hợp thí sinh được phát hiện gian lận điểm trúng tuyển vào các trường đại học vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau.
Thậm chí tại một số trường thí sinh được nâng điểm vẫn đang theo học do xác định số điểm thực chất sau khi chấm thẩm định vẫn đủ điểm trúng tuyển hoặc thí sinh đã sử dụng tổ hợp điểm những môn khác để xét tuyển.
Nhiều ý kiến cho rằng giáo dục là sự nghiệp trồng người, đào tạo thế hệ nhân tài cho đất nước phải đảm bảo cả tài và đức, liệu chúng ta có chấp nhận những chủ nhân tương lai của đất nước đã có hành vi gian lận ngay từ khi ngồi trên ghế giảng đường đại học.
Cho đến thời điểm này, lực lượng Công an đã khởi tố 3 vụ án về tội danh lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, khởi tố, bắt giam nhiều cá nhân có liên quan đến quá trình tham gia chấm thi, quản lý bài thi, đề thi tại các địa phương Hà Giang, Hòa Bình và Sơn La.
Vụ việc vẫn đang được tiếp tục điều tra làm rõ để xử lý nghiêm khắc trên tinh thần kiên quyết, khách quan và triệt để. Đối với các trường hợp thí sinh dự tuyển vào các trường CAND, trả lời phóng viên Lãnh đạo Cục Đào tạo - Bộ Công an đã cho biết: Đã trả 53 thí sinh gian lận điểm tại hai địa phương Sơn La và Hòa Bình trúng tuyển vào các trường CAND về địa phương để xử lý theo quy định.
Nguyên tắc xử lý của Bộ Công an là tất cả các học viên có điểm thi gian lận đều bị thu hồi kết quả trúng tuyển và xử lý nghiêm bất kể điểm thực chất sau khi trừ điểm nâng có đạt điểm chuẩn vào các trường CAND hay không.
Đồng thời để ngăn chặn và hạn chế tình trạng gian lận trong thi cử, hiện Bộ Công an cũng đang nghiên cứu xây dựng đề án đổi mới tuyển sinh vào các trường CAND.
Mục tiêu của đề án này là sẽ đưa ra các quy định mang tính đặc thù nhằm tuyển chọn được những người có năng lực, năng khiếu đáp ứng các tiêu chuẩn quy định cũng như hạn chế tình trạng gian lận khi thi tuyển vào các trường CAND.
Câu hỏi mà dư luận đang hết sức quan tâm là các cơ quan chức năng xử lý như thế nào đối với những thí sinh sai phạm và cả những người có liên quan, trong đó có phụ huynh của những thí sinh đã được nâng điểm.
Rõ ràng là những hệ lụy tiêu cực liên quan đến gian lận trong kỳ thi PTTH Quốc gia năm 2018 vừa qua để lại những hậu quả rất nặng nề. Những sai phạm đó đã làm ảnh hưởng đến một kỳ thi công bằng và nghiêm túc về sự trong sạch cần phải có của môi trường giáo dục.
Chỉ bằng cách xử lý một cách toàn diện, kịp thời và nghiêm khắc tất cả những sai phạm mới có thể lấy lại được lòng tin trong xã hội đặc biệt đối với các học sinh và phụ huynh khi một mùa thi mới sắp đến gần./.
Yên Trung

Thứ Sáu, 19 tháng 4, 2019

ĐỪNG LẦM TƯỞNG ĐỂ TỰ PHÁ HOẠI BÌNH YÊN CỦA CHÍNH MÌNH

Trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, chiêu thức thường được các thế lực thù địch tận dụng tối đa nhằm làm sụp đổ một quốc gia là tìm cách bôi nhọ chế độ xã hội hiện tại, thổi phồng những mặt trái của xã hội đó để gây tâm lý bất mãn rồi kích động sự phản kháng trong xã hội.

 Những vụ việc cụ thể, có tính cá biệt, những sai phạm của cá nhân, thường được nâng lên thành bản chất của chế độ xã hội. Đáng tiếc là vẫn có không ít người nhẹ dạ, thiếu thông tin, thiếu tầm nhìn, không tự phát hiện được sự thật đằng sau những luận điệu kích động đó, họ vô tình tự cướp đi bình yên của chính mình.

Ngộ nhận và bất mãn dễ bị kẻ xấu lợi dụng

Trong xã hội hiện nay, chúng ta không khó để nhận ra có những người rất hay than trách cuộc sống, nghi ngờ mọi thứ xung quanh, cho rằng mọi thứ đều xấu xa, tự cảm thấy mình chịu nhiều bất công, từ đó oán trách chế độ xã hội. Họ nhìn xã hội qua lăng kính màu đen nên mọi thứ xung quanh đều trở nên đen tối. Khi kinh tế phát triển họ nói rằng phát triển không thực chất, phải đánh đổi môi trường, lợi ích vào túi một số ít người. Khi một số cán bộ, đảng viên bị kỷ luật, một số vụ tham nhũng bị phát giác, xử lý nghiêm theo pháp luật, thì họ cho rằng như thế là chưa đủ, mà thậm chí phải "đập chế độ này đi xây lại vì cả hệ thống tham nhũng". Khi một vài trường học xảy ra bạo lực học đường, thì họ kết luận cả nền giáo dục là bỏ đi. Thậm chí khi bóng đá Việt Nam giành được nhiều thành tích, nhiều chiến thắng vinh quanh ở tầm châu lục và vươn lên đứng đầu khu vực Đông Nam Á, họ cũng cho rằng đó là may mắn, rồi chỉ là thành tích của một lứa cầu thủ, một huấn luyện viên, còn cả nền bóng đá vẫn tồi tệ...

ĐỪNG LẦM TƯỞNG ĐỂ TỰ PHÁ HOẠI BÌNH YÊN CỦA CHÍNH MÌNH
Cơ sở hạ tầng phát triển, chất lượng sống của người dân ngày càng được nâng lên.
Thực tế trong bất cứ xã hội nào cũng tồn tại những người bi quan và bất mãn. Điều này là kết quả, là ảnh hưởng từ xuất phát điểm của mỗi người; từ quá trình giáo dục, từ những kết quả công việc và cuộc sống cho đến cách tiếp nhận, phân tích thông tin của mỗi người và quan trọng là cách tự xác định tâm thế, vị trí của mỗi người đối với cuộc sống. Chúng ta có thể gặp không ít người có đời sống vật chất đủ đầy, có nhà lầu, xe hơi... nhưng vẫn bất mãn với cuộc sống, vẫn thấy nhiều người hơn mình, vẫn thấy mình thiệt thòi. Từ những bất mãn so bì đó, thay vì nỗ lực để mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn nữa cho bản thân như mong muốn, thì họ lại quay ra oán trách, thậm chí chửi bới, bôi nhọ chế độ xã hội.
Những lúc bình thường thì tâm thế của kiểu người nêu trên gây tiêu cực cho chính bản thân họ và xã hội. Nhưng khi mà cuộc đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” diễn ra rất quyết liệt, có nhiều sắc thái mới thì việc tồn tại trong xã hội kiểu người nói trên sẽ là cơ hội để các thế lực thù địch hướng tới, lôi kéo, nhằm đạt được mục đích là gây bất ổn xã hội, thậm chí gây rối loạn xã hội, tiến tới lật đổ chế độ.
Để nói về điều này, cần phải nhìn lại giai đoạn vừa qua của lịch sử thế giới đã chứng kiến những kết cục đau lòng từ sự ngộ nhận, lầm tưởng của một lớp người trong xã hội. Năm 2011, các cuộc biểu tình có cái tên rất mỹ miều là “Mùa xuân Ả Rập” đồng loạt nổ ra tại một số quốc gia Bắc Phi, Trung Đông, như: Tunisia, Algerie, Ai Cập, Yemen, Libya, Iraq, Syria... Các cuộc biểu tình này đã dẫn tới bạo động chống chính phủ, lan nhanh như một bệnh dịch khiến chính phủ ở một loạt nước như Ai Cập, Libya, Tunisia, Yemen bị lật đổ, xã hội hỗn loạn... Các nước Syria, Yemen chìm trong nội chiến. Theo ước tính đến năm 2016, “Mùa xuân Ả Rập” và các cuộc nội chiến từ hậu quả của nó đã làm Syria, Lybia, Iraq bị tàn phá, khoảng 500.000 người chết, hàng chục triệu người bị mất nhà cửa, phải chạy tị nạn sang các quốc gia khác.
Nguyên nhân dẫn tới biểu tình và bạo động là những vấn đề xã hội đã tồn tại trong các quốc gia nêu trên chậm được cải thiện, những vấn đề tư tưởng, những ấm ức, bất mãn, tâm lý bị thiệt thòi của một bộ phận người dân không sớm được giải tỏa và tìm biện pháp khắc phục. Cùng với đó là sự can dự, giật dây của các nước phương Tây, tiếp sức bằng tiền và vũ khí cho các nhóm chống đối, kích động, lôi kéo người dân xuống đường biểu tình. Đó là vì các nước phương Tây muốn thay đổi các chế độ trái mắt họ, vì lợi ích của họ. Kết quả của “Mùa xuân Ả Rập” là một thứ mùa xuân chết chóc, hỗn loạn, tan vỡ, ly tán, vợ mất chồng, cha mất con, người dân mất nhà cửa, đất nước tan hoang. Những nhà lãnh đạo bị phương Tây gọi là những “nhà độc tài” đã bị lật đổ, để rồi thay thế vào đó là nhiều nhóm quyền lực mới nổi lên bắn giết nhau, bất chấp mạng sống của người dân để giành quyền lực. Nhiều người dân Ả rập đã hối tiếc, muốn mọi thứ trở lại giai đoạn “tiền Mùa xuân Ả Rập”.
Nhìn người để nghĩ tới ta. Đất nước Việt Nam hiện được đánh giá nằm ở nhóm quốc gia có tốc độ phát triển nhanh hàng đầu thế giới. Chúng ta có thể cảm nhận thấy rõ đời sống của người dân đang đi lên theo thời gian. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2018, 70% người dân Việt Nam đã được bảo đảm về mặt kinh tế, trong đó 13% thuộc tầng lớp trung lưu theo chuẩn thế giới. Tính từ năm 2014 tới nay, trung bình mỗi năm có 1,5 triệu người Việt Nam gia nhập vào tầng lớp trung lưu toàn cầu, cho thấy các hộ gia đình đang tiếp tục leo lên bậc thang kinh tế cao hơn sau khi thoát nghèo. Tất cả vấn đề xã hội, vấn đề về môi trường, phát triển bền vững đều được Đảng, Nhà nước quan tâm. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên được đặc biệt quan tâm và thực hiện thực chất, quyết liệt. Thế nhưng tất cả những thực tế rõ ràng đó, những con người có con mắt thiếu khách quan vẫn cố tình không thừa nhận.

Liệu có một xã hội hoàn hảo hay không?

Để nhận thấy sự quan tâm của Nhà nước Việt Nam đối với các vấn đề trong xã hội, có thể nhìn sang quốc gia hùng mạnh nhất thế giới là nước Mỹ. Năm 2004, siêu bão Charley quét từ vịnh Mexico qua Florida đến Đại Tây Dương, tàn phá một số vùng của nước Mỹ, làm 22 người chết và thiệt hại 11 tỷ USD. Điều đáng nói, sau cơn bão này, người dân Mỹ mới nhận ra những điều bất ổn trong xã hội mình. Đó là nhân việc bão quét sạch mọi thứ, nhiều doanh nghiệp đã nâng giá bán với mức cắt cổ để kiếm lợi. Máy phát điện từ 250 USD tăng lên 2.000 USD; nước đá từ 2 USD được nâng lên 10 USD; một gia đình muốn dọn hai cây đổ vào nóc nhà thì phải trả giá là 23.000 USD (khoảng 530 triệu VNĐ). Đỉnh điểm là câu chuyện một cụ bà 70 tuổi chạy bão với người chồng và cô con gái khuyết tật đã phải trả 160 USD (khoảng 3,7 triệu VNĐ) một đêm cho buồng trọ giá bình thường chỉ 40 USD. Tờ USA Today khi đó đã bức xúc chạy dòng tít: “Kền kền sau bão” để phê phán thực trạng lợi dụng thảm họa, lợi dụng sự khổ đau của người khác để ép giá cắt cổ. Thế nhưng, điều đáng nói hơn là một số nhà kinh tế tại Mỹ lại phản đối tờ USA Today và cho rằng việc tăng giá như thế là bình thường, vì trong một nền kinh tế thị trường có quy luật cung cầu, cầu tăng mà nguồn cung giảm thì ắt giá sẽ tăng, chứ không có khái niệm “giá cắt cổ”.
Nhìn vào sự việc trên để thấy sự khác biệt ở Việt Nam. Khi xảy ra những trận thiên tai, bão lũ, thảm họa ở bất kỳ khu vực nào thì cả nước đều quan tâm, theo dõi, lo lắng rồi chung tay, quyên góp cùng địa phương đó kịp thời khắc phục hậu quả, giúp người dân ổn định cuộc sống. Các lực lượng chức năng, trong đó quân đội là lực lượng nòng cốt, được huy động để giúp đỡ người dân khẩn trương thu hoạch mùa màng, dựng lại nhà cửa, dọn dẹp vườn ruộng, đường xá, trường học, bệnh viện sau bão. Các hoạt động ấy vừa là nhiệm vụ được cấp trên giao phó nhưng cũng xuất phát từ trái tim. Bởi dân tộc Việt Nam, xã hội Việt Nam là một xã hội hướng thiện, yêu thương đùm bọc nhau đã là truyền thống từ xưa tới nay: “Lá lành đùm lá rách”, “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”... Khi nền kinh tế phát triển thường sẽ kéo theo những sự phát triển không đồng đều vì đặc điểm địa lý, lợi thế của mỗi vùng miền, rồi khả năng của mỗi con người cũng khác nhau. Nhận thấy nguy cơ này, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm để thiết kế các chế độ, chính sách thúc đẩy sự phát triển của vùng sâu, vùng xa, giúp đỡ người nghèo vươn lên theo phương châm “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Ở một xã hội phát triển như Nhật Bản, được coi là hình mẫu của nhiều quốc gia, thế mà trong nhiều tác phẩm của mình, ông Inamori Kazuo, một doanh nhân, một nhà giáo dục nổi tiếng của Nhật Bản vẫn nhiều lần phê phán, tỏ ý thất vọng vì xã hội và con người Nhật Bản hiện nay đang bị thoái hóa về đạo đức, một xã hội dần trở nên bị lũng đoạn bởi nhiều thói xấu như tham nhũng, ích kỷ, thiếu tử tế... Do đó có thể thấy, ở bất cứ một quốc gia nào, một chế độ nào cũng không bao giờ có sự hoàn hảo. Tất cả quốc gia, dân tộc, cơ quan, tổ chức, cá nhân đều mãi mãi chỉ trên con đường để vươn tới sự hoàn hảo. Và muốn vươn tới tiệm cận sự hoàn hảo đó thì chúng ta cần phải có cái nhìn đúng đắn, khách quan về mọi thứ xung quanh mình. Thay vì oán trách tại sao ai đó không làm điều tốt cho mình, tại sao mình không được hưởng những điều tốt đẹp hơn thì nên tự nỗ lực hơn nữa trong công việc và cuộc sống.
Đất nước Việt Nam đang trên con đường phát triển, do đó còn nhiều vấn đề đặt ra, còn những mặt trái trong xã hội. Vì vậy, muốn đất nước phát triển thì mọi người cần bình tĩnh, tỉnh táo để nhìn nhận đúng mọi vấn đề xung quanh mình, nỗ lực đóng góp sức mình dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Đừng vì những mặt trái hiện có trong xã hội mà thất vọng, chán nản, để rồi dễ bị lợi dụng, bị kích động, tự mình phá hoại sự ổn định của đất nước mình, sự bình yên, hạnh phúc của bản thân mình.
HỒ QUANG PHƯƠNG