KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, THỜI ĐẠI CỦA CHIẾN THẮNG 30 THÁNG 4

Năm nay, trong những ngày hướng đến kỷ niệm Chiến thắng lịch sử vĩ đại 30/4/1975, nhân dân ta đón mừng sự kiện này với nhiều niềm vui mới. Theo báo cáo của Chính phủ, kinh tế Việt Nam năm 2018 khởi sắc trên cả ba khu vực sản xuất, cung - cầu của nền kinh tế cùng song hành phát triển.

NHẬN DIỆN VÀ NGĂN NGỪA THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG LÒNG YÊU NƯỚC ĐỂ KÍCH ĐỘNG NGƯỜI DÂN XUỐNG ĐƯỜNG BIỂU TÌNH, GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Người yêu nước chân chính là người biết sử dụng pháp luật, đạo đức, truyền thống tốt đẹp để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, đồng thời phải biết tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Nhận diện được phương thức, thủ đoạn lợi dụng lòng yêu nước để kích động nhân dân làm việc xấu chính là nhằm đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp, đồng thời tránh được sự lợi dụng đó để gây ra rối loạn xã hội, phức tạp tình hình.

Thông cáo báo chí kỳ họp 32 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Từ ngày 03 đến 06/12/2018 tại Hà Nội, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã họp kỳ 32. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương chủ trì kỳ họp.

UBKTTW kết luận vụ AVG: Sai phạm của ông Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn là rất nghiêm trọng

UBKTTW vừa họp kỳ 26 kết luận vụ AVG có những vi phạm của Ban cán sự đảng Bộ TT-TT, ông Nguyễn Bắc Son, ông Trương Minh Tuấn, ông Phạm Đình Trọng, của Ban Thường vụ Đảng ủy Mobifone và các ông Lê Nam Trà, Cao Duy Hải là rất nghiêm trọng.

Bốn kỳ vọng thay đổi lớn về công tác cán bộ sau 4 ngày Hội nghị T.Ư 7

Sau 4 ngày làm việc, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng được dư luận đặc biệt quan tâm, trong đó có công tác cán bộ, bởi đây là vấn đề “nóng” trong tình hình hiện nay.

Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2019

Phật giáo góp phần hình thành nền tư tưởng, văn hóa dân tộc Việt Nam


Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, Phật giáo - với tư cách vừa là một học thuyết giải thoát về cách sống lương thiện tốt đẹp cho con người, vừa là một học thuyết qua tinh thần Tứ Ân có ơn với Tổ quốc là trọng đại - đã có những đóng góp quan trọng trong việc hình thành nền tư tưởng, văn hóa dân tộc Việt Nam.

Phật giáo góp phần hình thành nền tư tưởng, văn hóa dân tộc Việt Nam
Phật giáo đã có những đóng góp quan trọng trong việc hình thành nền tư tưởng, văn hóa dân tộc Việt Nam.
Kể từ khi đất nước giành được độc lập (1945) cho đến thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, tạo điều kiện để các tôn giáo luôn đồng hành cùng dân tộc, hành đạo theo pháp luật, tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa…; góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, trong suốt chiều dài  lịch sử tín ngưỡng, tôn giáo, luôn là một vấn đề nhạy cảm. Trong tình hình hiện nay, đây là lĩnh vực thường xuyên bị kẻ xấu và các thế lực thù địch, cơ hội lợi dụng để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư tưởng - văn hóa; chống phá, xuyên tạc đường lối chủ trương của Đảng về tự do tín ngưỡng, tôn giáo; phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, cổ súy những hoạt động núp bóng tín ngưỡng, tôn giáo trái pháp luật...
Để đấu tranh có hiệu quả với mọi hoạt động núp bóng và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo trái với pháp luật, bên cạnh việc nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền liên quan đến chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng, rất cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp cũng như vai trò, đóng góp của các tôn giáo chính thống - nhân bản, trong đó có Phật giáo vào quá trình phát triển của đất nước.
Với lịch sử hơn 2.000 năm, Phật giáo đã hội nhập và đồng hành như một thành tố không thể chia cắt trong đời sống văn hóa - xã hội của người dân Việt Nam. Thể hiện trên một số khía cạnh nổi bật mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam như sau:

Một là, đề cao giá trị con người, hướng thiện, xây dựng xã hội an bình.
Thực tế lịch sử Phật giáo Việt Nam đều khẳng định vị trí tối cao của con người. Thiền sư Vạn Hạnh từng nói: “Nhậm vận thịnh suy vô bố úy. Thịnh suy như lộ thảo đầu phô” (Khéo léo vận dụng quy luật thịnh suy thì không còn sợ hãi, thịnh suy mong manh như hạt sương trên đầu ngọn cỏ)(1). Trước khi nhập Niết bàn, Phật đã từng khuyên học trò phải dựa vào bản thân mình, lấy mình làm ngọn đèn, tự thắp đuốc lên mà đi. Nhìn lại, lịch sử Phật giáo Việt Nam, Trần Thái Tông - nhà Phật học lỗi lạc đã khẳng định bản chất con người là thánh thiện, mỗi người nếu biết dụng tâm tu tập đều có thể làm cho Phật tánh hiển lộ, tức là thành Phật ngay giữa cuộc đời. Tuy đề cao trí tuệ thực nghiệm (sống, thực hành), nhưng đạo Phật không xem nhẹ trí tuệ học hỏi và trí tuệ tư duy, mà sách Phật thường gọi là văn tuệ (học hỏi mà biết) và tư tuệ (tư duy mà biết).
Việc Phật giáo luôn đề cao khả năng tư duy độc lập của con người, chính là nhằm hướng mỗi người biết tự chọn cho mình phương châm hành động đúng lẽ phải, phân biệt chính/tà, thiện/ác, biết cần phải làm gì trong cuộc sống vốn đầy biến động, xây dựng một xã hội an bình.
Có thể nói, trí tuệ của Phật giáo là khuyến khích chính sách, biết tự khai thác năng lực nội sinh của mình để nỗ lực vươn lên, xây dựng hướng đi cho bản thân trong hoạt động thực tiễn. Bởi, nếu không có lý trí, không có khả năng tư duy “tùy biến”, con người sẽ bất lực và dễ dàng gục ngã trước những tác động phức tạp, biến động của cuộc sống, nhất là trong thời kỳ hội nhập. Phật giáo biện tâm và hướng nội giúp con người có được nội tâm yên bình, trong sáng để duy trì cuộc sống bình ổn, hòa đồng và có trách nhiệm trong xã hội hiện đại. Hướng nội là để cân bằng với hướng ngoại. Vì vậy, tâm lý học Phật giáo góp phần điều chỉnh tình trạng mất cân bằng của con người hiện đại. Những xu thế hướng nội của Phật giáo Việt Nam còn có một cội rễ sâu xa: đúng/sai và chân lý không phải do khách quan đưa lại, mà là xuất phát từ bên trong mỗi người.

Hai là, duy trì, phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, hòa đồng với cộng đồng.
Là một trong những hệ tư tưởng điển hình trong nền văn hóa dân tộc Việt Nam, tinh thần Phật giáo in đậm, tạo nên một sắc thái riêng trong các lĩnh vực văn hóa dân gian, văn học nghệ thuật, văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp, văn hóa ẩm thực, văn hóa kinh doanh... Hầu hết các hoạt động phật sự đều xuất phát từ lợi ích dân tộc, Tổ quốc và cuộc sống nhân sinh. Lịch sử đã chứng minh, Phật giáo Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc, góp phần vào chấn hưng đất nước, an sinh, đấu tranh vì hòa bình thịnh vượng...
Thông qua những hoạt động mang tính xã hội, cùng với nhiều tôn giáo khác, Phật giáo Việt Nam đã thể hiện sâu sắc tinh thần nhân văn, hướng thiện, tăng cường kết nối tình đoàn kết giữa Đạo với Đời, giữa các tầng lớp nhân dân, góp phần giáo dục, phát huy tinh thần cộng đồng, phát huy sức mạnh tập thể theo truyền thống của người Việt.
Trong xã hội hiện đại, khi những xung đột sắc tộc, tôn giáo diễn ra ở nhiều nơi trên trên thế giới thì triết lý và thực hành mô hình cộng đồng sống hòa hợp, đoàn kết của Phật giáo Việt Nam được coi là điển hình, vì điều đó mong muốn và hướng con người tới cuộc sống tốt đẹp, yêu thương, gắn bó, chung sống hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển.
Lấy đạo đức, trí tuệ làm cốt lõi cho sự tồn tại và phát triển nên Phật giáo là đạo của sự giác ngộ, giác ngộ để giải thoát khỏi tham lam, thù hận. Suy ra, nếu mỗi con người nhận thức đúng đắn (tức là giác ngộ) về tự nhiên và xã hội, hiểu rõ quan hệ của cá nhân trong cộng đồng và ảnh hưởng của xã hội tới cá nhân, thì sẽ có hành động và ứng xử đúng mực, hài hòa (giữa con người và tự nhiên, cá nhân và cộng đồng), biết sống hòa đồng và tăng cường hỗ trợ lẫn nhau...

Ba là, giáo dục, phát huy truyền thống yêu nước.
Lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho thấy, khi đất nước hưng thịnh thì Phật giáo phát triển; cùng với nền độc lập, tự do của dân tộc, trong nhiều năm qua, Phật giáo đã tích cực góp phần cùng toàn dân tham gia xây dựng cuộc sống thông qua giáo dục tín đồ, phật tử phát huy truyền thống yêu nước, trau dồi đạo đức, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Lịch sử Phật giáo Việt Nam cũng đã chứng minh những đóng góp quan trọng vào công cuộc dựng nước, giữ nước và bảo vệ Tổ quốc của Phật giáo. Qua nhiều triều đại phong kiến, nhiều vua/quan là Phật tử đã vận dụng những tinh hoa trong tư tưởng, triết lý của đạo Phật phục vụ cho công cuộc chấn hưng đất nước. Cùng với tinh thần tự chủ, độc lập, anh dũng của dân tộc, các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần đã khẳng định tinh thần gắn liền đạo pháp với dân tộc của Phật giáo. Tại lễ Phật Đản Vesak 2008 tại Hà Nội, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã phát biểu nhấn mạnh: “...Ngay từ buổi đầu tiên, với tư tưởng từ bi, hỉ xả, Phật giáo đã được nhân dân Việt Nam đón nhận, luôn đồng hành cùng dân tộc với phương châm nhập thế, gắn bó giữa Đạo và Đời, phấn đấu vì hạnh phúc và an vui cho con người. Trong các thời đại, thời nào lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận những nhà sư đại đức, đại trí đứng ra giúp đời hộ quốc an dân. Đặc biệt, lịch sử Việt Nam mãi ghi nhớ công lao của vị vua anh minh Trần Nhân Tông có công lớn lãnh đạo nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Khi đất nước thái bình, Người nhường ngôi, từ bỏ giàu sang, quyền quý, tìm nơi non cao Yên Tử để học Phật, tu hành, sáng lập nên Thiền phái Trúc Lâm - một dòng thiền riêng của Việt Nam tồn tại mãi tới ngày nay”. (2)
Trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở thế kỷ XX của dân tộc, nhiều phật tử đã tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh vì lẽ phải, vì độc lập tự do của Tổ quốc. Phật giáo đã góp phần đồng hành cùng dân tộc trong các cuộc trường chinh cứu nước, giữ nước; góp phần giáo dục và phát huy truyền thống yêu nước trong mỗi tín đồ phật tử cũng như các thế hệ con dân nước Việt.

Bốn là, chung tay xây dựng, phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Trên nhiều góc độ, bình diện, trí tuệ Phật giáo đã thể hiện rất rõ tác dụng, trong việc góp phần cùng với các tổ chức xã hội và nhân dân thực hiện ngày càng tốt hơn những chủ trương, quyết sách của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là công tác nhân đạo, từ thiện, hạn chế những tiêu cực, mặt trái trong xã hội hiện đại... Thể hiện qua hoạt động truyền bá và tôn vinh những giá trị tốt đẹp của nền văn hóa truyền thống dân tộc với nhiều hình thức giáo dục đa dạng; khơi lên những giá trị tích cực trong văn hóa tâm linh; giác ngộ lòng từ bi, hướng thiện trong tâm hồn con người...
Mặc dù cũng còn những hạn chế nhất định trong phương châm hành động và triết lý duy tâm, nhưng Phật giáo đã và đang có những đóng góp quan trọng cùng với những tôn giáo khác vào quá trình phát triển của xã hội và đất nước. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, đất nước ta đang có những bước tiến mạnh mẽ vào quá trình hội nhập và phát triển và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; bên cạnh những kết quả tích cực, nền kinh tế thị trường với những mặt trái của nó đã và đang đưa đến nhiều hệ lụy, trong đó có những hệ lụy về mặt tinh thần.
Để thúc đẩy sự phát triển của công cuộc đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm khai thác, phát huy, xây dựng các nguồn lực phục vụ cho quá trình phát triển đất nước. Trong đó, có những chính sách đúng đắn về tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng, coi đây là một trong những nhân tố quan trọng để việc giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của đất nước hiện nay.
Giáo lý của Đức Phật nhằm tạo ra sự ổn định trong mỗi gia đình và từ đó đưa đến sự ổn định và phát triển trong mỗi quốc gia. Mỗi quốc gia ổn định, hạnh phúc sẽ tạo nên một thế giới hòa đồng, nhân ái, hòa bình, ổn định - là điều mà mọi người trong mọi xã hội, mọi thời đại đều mong muốn được thực hiện, được thụ hưởng. Trong đời sống văn hóa Việt Nam, Phật giáo đã hòa nhập trong cộng đồng xã  hội, thành một bộ phận văn hóa tinh thần, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc phong phú. Các thiền sư Không Lộ, Tuệ Tĩnh, Vạn Hạnh hết lòng phò vua giúp nước, xây dựng xã tắc vững bền vì bách tính. Phật hoàng Trần Nhân Tông hai lần khoác chiến bào cùng toàn dân kháng chiến chống quân Nguyên, khi đất nước yên bình, Ngài nhường ngôi cho con và lên núi Yên Tử tu thiền trở thành Sư tổ Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam.

(1), (2): Giáo hội Phật giáo Việt Nam: Kỷ yếu Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Tôn giáo, H, 2014, tr.50.

Đỗ Nguyên Tuấn Anh

Thứ Sáu, 22 tháng 3, 2019

“GẦN MỰC THÌ ĐEN, GẦN ĐÈN THÌ SÁNG”

Mấy ngày qua, trên mạng xã hội có nhiều chia sẻ hình ảnh của một nhóm học sinh, thanh thiếu niên... chụp ảnh chung với một nam thanh niên với số lượt tương tác (like, comment) rất lớn.

“GẦN MỰC THÌ ĐEN, GẦN ĐÈN THÌ SÁNG”

Trong những bức ảnh được đăng tải, chia sẻ cho thấy nam thanh niên được ví như một người nổi tiếng... Người dân cùng rất nhiều em học sinh, thanh thiếu niên; trong số đó thậm chí có người đã đứng tuổi xúm đông, phấn khích vây quanh để xin chụp ảnh cùng “idol” của mình. Thậm chí, trong một bức ảnh, nam thanh niên còn được các em học sinh bế lên cao với vẻ hào hứng.
Được biết, nam thanh niên tên là Ngô Bá Khá có biệt danh là Khá “bảnh”, là hiện tượng mạng xã hội, đang được sự quan tâm của giới trẻ; nổi tiếng vì tính cách “nổi loạn” với các video clip nhảy múa, lắc lư trên nền nhạc sàn trong quán bar đầy khói thuốc!
Sơ lược về nhân thân thì nam thanh niên này chả có thành tích gì nổi trội ngoài việc… tù tội! Đầu năm 2011, Khá bị bắt vào trại giáo dưỡng (Bộ Công an), nơi dành cho thanh niên phạm tội khi chưa đủ tuổi vị thành niên vì tội đánh người và cố ý gây thương tích (2 năm). Ngoài lần này thì Khá phải đi tù vài lần nữa nhưng thời gian không nhiều với các hành vi như hành hung, đánh người gây thương tích, đòi nợ thuê... Đặc biệt, ngày 24/9/2017 Khá ra tù, được đông đảo anh em đến đón... Và lần gần đây nhất, ngày 09/3/2019, trên MXH xuất hiện một bức ảnh có mặt của Khá chụp cùng một đám thanh niên đứng hàng ngang, đáng nói hơn địa điểm trong bức ảnh chính là cao tốc Hà Nội - Hải Phòng. Như vậy, đây là một người mà chúng ta nên thần tượng hay không thì mọi người chắc cũng đã hiểu!

“GẦN MỰC THÌ ĐEN, GẦN ĐÈN THÌ SÁNG”
Chụp ảnh trên cao tốc và cái kết: nộp phạt!
Trong xã hội có rất nhiều người làm điều hay, việc tốt, bao điều hay lẽ phải tại sao các bạn trẻ không học? Mà lại đi hào hứng, tung hô một con người vào tù ra tội, nhiều chiến tích “tiêu cực” như thế? Các bạn có biết việc tung hô, a dua, bắt chước những trào lưu không lành mạnh như vậy sẽ ảnh hưởng thế nào không? Nó sẽ gián tiếp làm thay đổi tính cách cũng như lối sống của mình đấy. Nó sẽ thấm dần, thấm dần vào tư tưởng chúng ta và cái kết cuối cùng là chúng ta sẽ có những hành động không được đẹp, làm tăng tính bạo lực, khiến chúng ta sẽ có lối sống ăn chơi, buông thả, chạy theo xu hướng bởi bia bọt, bóng cười... Và nặng hơn sẽ dẫn đến các cuộc chiến, xung đột, gây rối mất an ninh trật tự, gia tăng tệ nạn xã hội... (như vụ ca sỹ Châu Việt Cường - vì chơi ma túy đá gây chết người và phải đi tù - là một bài học mà chúng ta lấy làm gương để tránh né!).
Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước đang thực hiện sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển để có thể đưa Việt Nam “sánh vai với các cường quốc năm châu” như Bác Hồ kính yêu hằng mong ước. Là tuổi trẻ - chúng ta phải cố gắng ra sức học tập, tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức, vượt qua các cạm bẫy tiêu cực, không a dua, bắt chước những thói hư tật xấu... như vậy mới có thể trở thành những người có ích cho xã hội, cống hiến nhiều hơn cho Tổ quốc, xứng đáng là con Lạc cháu Hồng, góp phần giữ gìn và phát huy những truyền thống văn hóa, bản sắc tốt đẹp của dân tộc Việt Nam!
Tóm lại, với bất kỳ ai có những việc làm tốt, là tấm gương sáng, thể hiện được đạo đức, văn hóa của người Việt Nam thì chúng ta mới nên học hỏi, làm theo tiếp đó là biểu dương, tuyên truyền và nhân rộng!
Tương lai của bạn ảnh hưởng rất nhiều từ ngày hôm nay! Hãy học hỏi và làm theo những điều tốt đẹp! Tuổi trẻ hôm nay, thế giới ngày mai!

Thứ Ba, 19 tháng 3, 2019

VỀ VỤ QUẤY RỐI NỮ SINH TRONG THANG MÁY

Hiện trên không gian mạng đang xôn xao về vụ kẻ quấy rối tình dục trong thang máy chỉ bị phạt 200.000 đồng và được cho là quá nhẹ, không đủ sức răn đe đối tượng, và ám chỉ Công an Hà Nội bao che hành vi của đối tượng. Có một số facebook còn nói rằng nộp trước tiền phạt 2.000.000 đồng để tiếp tục thực hiện hành vi nêu trên(!?). Cá biệt, có tờ báo giật hẳn tít dẫn lời đại biểu quốc hội Phạm Thị Minh Hiền cho rằng “Phạt 200.000 đồng kẻ quấy rối nữ sinh trong thang máy: cái nhếch mép vào sự ngay thẳng của cơ quan công quyền”???…

VỀ VỤ QUẤY RỐI NỮ SINH TRONG THANG MÁY


Vậy theo các anh chị phạt như thế nào mới đủ sức răn đe? Truy tố đối tượng hay phạt nặng đối tượng như thế nào với hành vi nêu trên?
Có thể nói, hành vi quấy rối trong thang máy của tên biến thái này rất đáng phê phán, nhưng theo luật pháp hiện hành, hành vi này được quy định trong khung hình phạt hành chính với mức phạt từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng (theo quy định tại khoản 1, điều 5, Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội). Luật quy định là như thế, nếu Công an phạt cao hơn, luật không cho phép. Còn nếu phạt theo sự phẫn nộ của các anh chị thì có thể anh Công an bị cho ra khỏi ngành! Nếu các anh, chị được giao xử lý vụ việc này, các anh chị sẽ làm gì? Đặt câu hỏi để các anh, chị tự trả lời.
Tất cả mọi người đều phải tuân thủ và bình đẳng trước Hiến pháp và pháp luật. Nếu luật đã ban hành nhưng chưa phù hợp, thì luật sẽ được sửa đổi để phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Vì vậy, vụ việc nêu trên, các cơ quan chức năng đã thực hiện đúng pháp luật hiện hành, không thực hiện theo cảm tính hay bênh vực kẻ biến thái đã nêu ở trên như một số đối tượng lợi dụng vụ việc này nhằm mục đích để nói xấu, bôi nhọ, xuyên tạc…!
                                           Thảo Nhiên

Chủ Nhật, 17 tháng 3, 2019

KHỞI TỐ NGUYÊN PHÓ CHỦ TỊCH UBND TP ĐÀ NẴNG NGUYỄN NGỌC TUẤN


Ông Nguyễn Ngọc Tuấn, nguyên Phó Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng, cùng một loạt cán bộ khác bị khởi tố do các vi phạm liên quan đến quản lý đất đai.

KHỞI TỐ NGUYÊN PHÓ CHỦ TỊCH UBND TP ĐÀ NẴNG NGUYỄN NGỌC TUẤN

Ngày 18/3, Cơ quan điều tra Bộ Công an đã ra quyết định khởi tố bị can đối với ông Nguyễn Ngọc Tuấn, nguyên Phó Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng, để điều tra các vi phạm liên quan đến quản lý đất đai.
Cùng ngày, Cơ quan điều tra Bộ Công an và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có mặt tại nhà ông Nguyễn Ngọc Tuấn tại đường Hoàng Kế Viêm, phường Mỹ An, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng để khám xét, thu thập tài liệu, chứng cứ phục vụ điều tra.
Ông Hồ Sĩ Hoàng, tổ trưởng tổ dân phố 22, phường Mỹ An, cho biết ông được công an mời đến chứng kiến khám xét nhà ông Tuấn.
Ông Nguyễn Ngọc Tuấn (61 tuổi, kiến trúc sư, quê quán Điện Ngọc, Điện Bàn, Quảng Nam) nguyên là Thành ủy viên, Phó Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng.
Trước khi làm Phó Chủ tịch thành phố, ông Tuấn từng đảm nhiệm các chức vụ: Viện trưởng Viện Quy hoạch xây dựng Đà Nẵng; Phó Giám đốc Sở Xây dựng; Giám đốc Sở Xây dựng Đà Nẵng.
Khi đảm nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng, ông Tuấn phụ trách và chỉ đạo các lĩnh vực: quản lý đô thị; quản lý đất đai; quản lý chất lượng công trình xây dựng, an toàn lao động, vệ sinh môi trường các dự án đầu tư và công trình xây dựng trên địa bàn (không phân biệt nguồn vốn đầu tư); tài nguyên - môi trường; giao thông vận tải…
Ông Tuấn có quyết định nghỉ hưu từ ngày 01/01/2019, tuy nhiên do có nguyện vọng cá nhân, ông xin được nghỉ hưu sớm tại kỳ họp HĐND TP Đà Nẵng ngày 19/12/2018.
Được biết ngày hôm nay, Cơ quan điều tra cũng ra quyết định khởi tố nhiều bị can khác, trong đó có ông Nguyễn Đình Thống, nguyên Giám đốc Công ty Quản lý và khai thác đất TP Đà Nẵng.
Ông Thống đã từng bị Ủy ban kiểm tra Thành ủy Đà Nẵng thi hành kỷ luật hình thức cảnh cáo.
Theo kết luận của Ủy ban kiểm tra, trong thời gian giữ chức vụ Giám đốc Công ty Quản lý và khai thác đất thành phố, ông Nguyễn Đình Thống đã ký hợp đồng giao đất có thu tiền sử dụng đất không đúng quy định pháp luật về đất đai.
Sai phạm của ông Thống liên quan đến vụ bán Sân vận động Chi Lăng (diện tích hơn 6ha ở khu đất bốn mặt tiền giữa trung tâm thành phố Đà Nẵng gồm đường Lê Duẩn, Chi Lăng, Ngô Gia Tự, Hùng Vương và một số sai phạm khác.
Năm 2010, Đà Nẵng giao đất sân vận động Chi Lăng cho Tập đoàn Thiên Thanh của đại gia Phạm Công Danh xây khu phức hợp, thương mại. Tuy nhiên đến nay dự án đang bị “treo”, các cầu thủ đã được chuyển sang thi đấu tại Sân vận động mới Hòa Xuân.
Ông Thống cùng một số bị can khác bị khởi tố hôm nay đều được áp dụng biện pháp cho tại ngoại.
Liên quan đến sai phạm đất đai tại Đà Nẵng, trong năm 2018 có nhiều nguyên lãnh đạo thành phố này bị khởi tố.
Cơ quan điều tra Bộ Công an khởi tố bị can hai nguyên Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng là ông Trần Văn Minh (bị bắt tạm giam) và ông Văn Hữu Chiến do các vi phạm về quản lý đất đai.
Thực tế, từ năm 2007 đến nay, rất nhiều nhà đất công sản ở Đà Nẵng được bán, giao đất cho nhà đầu tư, trong đó chủ yếu là ông Phan Văn Anh Vũ (tức Vũ “nhôm”), có dấu hiệu vi phạm khi không thực hiện đúng Luật đất đai.
Vai trò của cá nhân lãnh đạo TP Đà Nẵng lúc bây giờ có ông Trần Văn Minh, Văn Hữu Chiến (nguyên Chủ tịch UBND TP).
Các cơ quan, cá nhân tham mưu có vai trò của ông Nguyễn Điểu (nguyên Giám đốc Sở Tài nguyên - Môi trường), Đào Tấn Bằng (nguyên Phó Chánh Văn phòng UBND TP Đà Nẵng)...
Cơ quan điều tra cũng khởi tố các ông Trần Văn Toán (sinh năm 1957, trú tại quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, nguyên Phó Giám đốc Sở Tài nguyên - Môi trường thành phố Đà Nẵng) và Lê Cảnh Dương (sinh năm 1975, trú tại quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, Giám đốc Ban xúc tiến và hỗ trợ đầu tư thành phố Đà Nẵng).

10 NĂM TÙ CHO ĐỐI TƯỢNG Ý ĐỊNH KHÔI PHỤC “TIN LÀNH ĐÊ-GA”

Ngày 15-3, Hội đồng xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai đã tuyên phạt bị cáo Ksor Ruk (SN 1975, trú tại buôn Toát, xã Ia Rsươm, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai) 10 năm tù về tội “Phá hoại chính sách đoàn kết”.

 Trước đó, năm 2007, Ksor Ruk từng bị Toà án nhân dân tỉnh kết án 6 năm tù cũng về tội “Phá hoại chính sách đoàn kết”. Đến năm 2011, đối tượng này đã chấp hành xong hình phạt tù và trở về địa phương sinh sống. Tuy nhiên, đến tháng 7-2016, y vẫn tiếp tục hoạt động phá hoại khi cấu kết cùng người chú là Ksor Phom cũng từng bị kết án 7 năm về tội “Phá rối an ninh”, đã phục hồi “Tin lành Đê-ga” khu vực Lệ Bắc, huyện Krông Pa. Ksor Ruk đã đi tuyên truyền, lôi kéo nhiều người tham gia nhóm họp để bầu ra Ban chấp sự “Tin lành Đê-ga” ở khu vực này cùng các chức danh chấp sự trưởng, chấp sự phó, thư ký, thủ quỹ…
Đồng thời nhóm này đã bầu ra Ban chấp sự ở 9 buôn với mục đích kêu gọi những người trước đây đã từng tham gia “Tin lành Đê-ga” tái nhóm họp, cầu nguyện, nhằm tập hợp lực lượng khi có điều kiện sẽ đấu tranh thành lập “Nhà nước Đê-ga” do Ksor Kơk làm Tổng thống. Tuy nhiên hoạt động này của Ksor Ruk đã sớm bị phát hiện từ tháng 10-2016, lực lượng Công an đã đưa các đối tượng ra kiểm điểm, giáo dục nên đã chấm dứt hoạt động.
Đến tháng 10-2017, Nay Phoan - con của Ksor Phom là đối tượng FULRO sống lưu vong ở Mỹ đã điện thoại và chỉ đạo cho Ksor Ruk tiếp tục hoạt động phục hồi tổ chức FULRO, “Tin lành Đê-ga” trên địa bàn huyện Krông Pa và huyện Sông Hinh (tỉnh Phú Yên); khôi phục lại Ban chấp sự “Tin lành Đê-ga” huyện Krông Pa như năm 2016 và thành lập Ban chấp sự “Tin lành Đê-ga” từ cấp huyện đến cấp xã và cấp buôn. Đồng thời, tìm cách liên lạc với các đối tượng trước đây tham gia “Tin lành Đê-ga” nay đã hết hạn tù về, động viên họ tiếp tục tham gia hoạt động trong tổ chức FULRO, “Tin lành Đê-ga” như trước đây, tiếp tục tin tưởng vào sự thành công của “Nhà nước Đê-ga” và thu thập số điện thoại của các đối tượng này cung cấp cho Nay Phoan.

10 NĂM TÙ CHO ĐỐI TƯỢNG Ý ĐỊNH KHÔI PHỤC “TIN LÀNH ĐÊ-GA”
Đối tượng Ksor Ruk tại phiên toà.
 Nay Phoan giao nhiệm vụ cho Ksor Ruk, trực tiếp đến gặp những người đứng đầu “Tin lành Đê-ga” các buôn đã bầu năm 2016 để tuyên truyền, giao nhiệm vụ cho họ giữ lại chức vụ cũ; tuyên truyền, vận động, lôi kéo, nhiều người tham gia nếu có điều kiện thuận lợi thì cùng nhau đứng lên đấu tranh đòi lại đất đai của người Jrai, đuổi người Kinh ra khỏi Tây Nguyên để thành lập cái gọi là “Nhà nước Đê-ga”.
Để tránh sự phát hiện của Công an, Nay Phoan yêu cầu Ksor Ruk sử dụng facebook để liên lạc. Ksor Ruk không biết sử dụng mạng xã hội facebook nên đã nhờ một đối tượng là Nay Bông sử dụng facebook của Nay Bông có tên là “Sít Tơi Lơi” liên lạc qua facebook của Nay Phoan có tên là “Tơi Lơi Pogop” để nhận sự chỉ đạo của Nay Phoan vào các sáng chủ nhật hàng tuần. Ngoài ra, Nay Phoan còn tuyên truyền cho Ksor Ruk và Nay Bông ở nước Mỹ đã có Nhà thờ “Tin lành Đê-ga”, có “Nhà nước Đê-ga” do Ksor Kơk làm Tổng thống.
Theo sự chỉ đạo của Nay Phoan, từ tháng 10-2017 đến tháng 9-2018, tại huyện Krông Pa, Ksor Ruk đã tái phục hồi Ban chấp sự “Tin lành Đê-ga” cấp huyện và phân công nhiệm vụ cho 10 người phụ trách “Tin lành Đê-ga” tại 10 buôn/7 xã; thành lập bộ khung Ban chấp sự “Tin lành Đê-ga” tại buôn Toát và buôn Nu A xã Ia Rsươm với tổng số 18 người tham gia. Tại huyện Sông Hinh (tỉnh Phú Yên) Ksor Ruk đã phục hồi Ban chấp sự “Tin lành Đê-ga” tại 1 buôn/1 xã với 5 người tham gia. Đồng thời, Ksor Ruk còn tuyên truyền cho 3 người tại huyện Ia Pa không được từ bỏ “Tin lành Đê-ga” và cung cấp số điện thoại của 4 đối tượng theo “Tin lành Đê-ga” đã chấp hành xong án phạt tù cho Nay Phoan để Nay Phoan trực tiếp liên lạc với họ, nhằm tập hợp lực lượng đấu tranh thành lập “Nhà nước Đê-ga”.
Với những hành vi trên, ngày 30-10-2018, Ksor Ruk đã bị lực lượng Công an bắt giữ. Với các đối tượng khác đã thành khẩn khai báo, nhận thức được việc làm sai trái và cam kết không tái phạm, lực lượng Công an đã ban giao cho địa phương theo dõi, quản lý giáo dục đồng thời đưa ra kiểm điểm trước nhân dân. Riêng đối tượng Nay Phoan, Cơ quan An ninh Điều tra đã ra quyết định truy nã và quyết định tách vụ án để tiếp tục điều tra về hành vi phạm tội của y.

Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2019

ĐẾN SƠN MỸ KHÔNG QUÊN TỘI ÁC CHIẾN TRANH


Có dịp đến Quảng Ngãi, tôi đã nằng nặc bảo đứa bạn học của tôi dẫn đến thăm Khu di tích Sơn Mỹ (tại thôn Mỹ Lai, xã Sơn Mỹ, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi). Tôi rất mừng vì xã nghèo, bị tàn phá bởi chiến tranh năm xưa giờ đã rất phát triển, đổi mới. Vào thăm khu di tích, những kỷ vật, hình ảnh về tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ đối với nhân dân thôn Mỹ Lai, xã Sơn Mỹ vẫn còn lưu giữ, nhắc nhở tôi và mọi người, các thế hệ sau cái khốc liệt, dã man tàn bạo của chiến tranh; và càng yêu quý, có trách nhiệm gìn giữ hòa bình đến nhường nào.

ĐẾN SƠN MỸ KHÔNG QUÊN TỘI ÁC CHIẾN TRANH
Tháng 10/2011, ông Ronald Haeberle - tác giả bộ ảnh vụ thảm sát Mỹ Lai - gặp lại ông Đỗ Ba, nạn nhân sống sót vụ thảm sát.
Đúng 51 năm trước (vào ngày 16/3/1968) tại thôn Sơn Mỹ, các đơn vị lính Lục quân Hoa Kỳ đã thảm sát 504 dân thường không có vũ khí, trong đó phần lớn là phụ nữ và trẻ em. Trước khi bị sát hại, nhiều người trong số các nạn nhân còn bị cưỡng bức, quấy rối, tra tấn, đánh đập, hoặc bị cắt xẻo các bộ phận trên cơ thể. Sự kiện thảm khốc này đã gây sốc cho dư luận Mỹ, Việt Nam và trên thế giới, hâm nóng phong trào phản chiến tại chính đất nước Hoa Kỳ.
Cuối ngày hôm đó, trên các bản tin của Quân đội Mỹ, “128 tên Việt Cộng đã bị tiêu diệt sau một ngày chiến đấu khốc liệt”. Tướng Wiliam Westmoreland, tư lệnh của lực lượng Mỹ tại miền Nam Việt Nam, có lời khen đơn vị của ông đã “làm việc kiệt xuất”. Vụ thảm sát nêu trên đã bị che dấu ngay sau đó. Trong báo cáo của quân đội Mỹ ghi rằng họ đã “tiêu diệt 128 binh lính kẻ thù mà không chịu bất cứ thương vong nào. Đến cuối năm 1969, vụ việc trên mới bị phát hiện. Tuy nhiên, tòa án Mỹ đã không kết tội bất cứ sỹ quan hay binh lính Hoa Kỳ nào sau vụ thảm sát này, ngoại trừ một chỉ huy cấp trung đội là Wiliam Calley bị tuyên án chung thân, nhưng chỉ một ngày sau, Tổng thống Mỹ đã ra lệnh ân xá và Calley chỉ phải chịu quản thúc tại gia 3,5 năm.
Có thể nói, tội ác của đế quốc Mỹ trong vụ thảm sát tại Sơn Mỹ là “trời không dung, đất không tha” của quân đội Mỹ. Chiến tranh là tàn ác, nhưng thảm sát dân thường mà chủ yếu là phụ nữ, trẻ em và người già là sự tàn ác đến đỉnh điểm. Lịch sử không thể nào quên tội ác chiến tranh này của đế quốc Mỹ.
Xin được thắp nén tâm nhang và cúi đầu để tưởng nhớ những người đã khuất. Lịch sử bị xâm lược của dân tộc ta như nhắc nhở chúng ta rằng phải luôn đoàn kết, xây dựng đất nước hùng cường, giàu mạnh và yêu chuộng hòa bình; xây dựng và củng cố thế trận Quốc phòng toàn dân gắn với thế trận An ninh Nhân dân để bảo vệ Tổ quốc ngày càng vững mạnh./.
Thảo Nhiên


Thứ Năm, 14 tháng 3, 2019

LẬT TẨY MƯU ĐỒ CHỐNG PHÁ DƯỚI CHIÊU BÀI “TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM”

“Tù nhân lương tâm” - một cụm từ được không ít trang thông tin tuyên truyền của các cá nhân, tổ chức phản động sử dụng khi nói về những đối tượng bị Nhà nước Việt Nam tuyên án do có hành vi phạm tội xâm phạm đến an ninh quốc gia.

LẬT TẨY MƯU ĐỒ CHỐNG PHÁ DƯỚI CHIÊU BÀI “TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM”
Phiên tòa xét xử Huỳnh Trương Ca
Sau những cái tên như Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Trần Thị Nga, Cấn Thị Thêu, Lê Thị Công Nhân... các đối tượng lại tiếp tục “khóc thuê”, “hát mướn” cho Huỳnh Trương Ca. Và hiển nhiên, sau những lần “khóc mướn” này, chiêu bài dân chủ, nhân quyền lại tiếp tục được các đối tượng sử dụng nhằm xuyên tạc tình hình ở Việt Nam.
Tù nhân là những người có hành vi vi phạm pháp luật, bị toà án tuyên là có tội và phải chịu hình phạt tù theo quyết định có hiệu lực của toà án. Nói như vậy để thấy, việc một người bị phạt tù là hậu quả tất yếu khi người đó có hành vi phạm tội, xâm phạm các quan hệ xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự. Vậy nhưng “lưỡi không xương trăm đường lắt léo”, các đối tượng thù địch, chống đối Việt Nam đã dựng lên cụm từ “tù nhân lương tâm” để bao biện cho những kẻ phạm pháp.
Tìm hiểu nguồn gốc cụm từ “tù nhân lương tâm”, có thể thấy nó ra đời vào khoảng những năm 60 của thế kỷ trước để đề cập đến những người bị giam giữ, bỏ tù vì lý do chủng tộc, chính trị, tôn giáo, màu da, niềm tin hay lối sống của họ, miễn là họ đã không sử dụng hoặc ủng hộ bạo lực.
Nói một cách dễ hiểu, những người được gọi là “tù nhân lương tâm” là những người không hề có hành vi phạm tội nhưng vẫn bị kết án phạt tù. Lạ lùng thay, ở Việt Nam, tất cả những kẻ chống phá Nhà nước khi bị kết án đều được các thế lực thù địch, chống đối chụp mũ cái tên “tù nhân lương tâm”.
Bất chấp việc những người này vi phạm quy định trong Bộ luật Hình sự của Việt Nam, bất chấp việc các đối tượng xâm phạm đến an ninh quốc gia của Việt Nam, bất chấp những hậu quả nguy hiểm mà các đối tượng đã gây ra cho xã hội, một số kẻ không những không lên án mà còn trở bút ca ngợi, suy tôn những đối tượng xâm phạm an ninh quốc gia của Việt Nam như những anh hùng.
Viết về các đối tượng chống phá Việt Nam, có kẻ không “ngượng mồm” tuyên truyền: “Họ là những thanh niên căng tràn nhiệt huyết hành động vì quê hương, nhưng bị nhà cầm quyền tước đoạt tuổi thanh xuân”, “Họ là những cựu chiến binh suy tư về thời cuộc và mang trong mình khát vọng cống hiến cho đất nước”, “Họ là những nhà giáo có đạo đức và sẵn sàng đánh đổi cả sự nghiệp để đi theo tiếng gọi của lương tri”, “Họ còn là những bloggers, luật sư, người bất đồng chính kiến, những người công nhân, tín đồ tôn giáo… Những con người nặng lòng với quê hương, đất nước”.
Đúng là sự lố bịch! Từ bao giờ, hành động chống phá Nhà nước, chống phá nhân dân lại được gọi là yêu nước, từ bao giờ, những kẻ lẻo mép, suốt ngày chửi bới chính quyền, Tổ quốc, miệt thị đất nước mình lại được cho là đang đấu tranh vì tự do, nhân quyền?
Gần đây nhất, các đối tượng phản động đang tích cực “khóc mướn” cho Huỳnh Trương Ca, một đối tượng bị tuyên phạt 5 năm 6 tháng tù về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”.
Lợi dụng mạng xã hội, Huỳnh Trương Ca đã tiến hành Livestream chia sẻ, tuyên truyền các thông tin bịa đặt, phỉ báng chính quyền. Đứng trước vành móng ngựa, Ca cũng đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Vậy nhưng, các đối tượng chống đối vẫn ngang nhiên xếp Ca vào nhóm “tù nhân lương tâm”.
Thậm chí, ngay cả khi Huỳnh Trương Ca đang bị thi hành hình phạt tù, nhiều kẻ vẫn tích cực sử dụng Ca như một quân cờ để chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Vẫn giọng điệu “mèo khóc chuột”: “Huỳnh Trương Ca từ lâu bị nhốt trong phòng tối, chung với bọn xã hội đen, ngáo đá... ăn uống thì bữa đói bữa no, cuối tuần hầu như chỉ ăn cháo”.
Xin thưa, nhà tù không phải là khu nghỉ dưỡng, cũng chẳng phải là khách sạn mà được chọn phòng, xếp chỗ, được ăn ngon, mặc đẹp, nằm êm. Và cũng xin thưa, xã hội đen, ngáo đá phạm pháp hay quan chức “dính chàm”, bất cứ ai đi chăng nữa thì trước pháp luật, tất cả đều bình đẳng, đều bị xử lý theo đúng tính chất, mức độ phạm pháp.
Lẽ nào, khi được phong là “tù nhân lương tâm”, anh thuộc “đẳng cấp trên” so với người khác để thích nói gì thì nói, làm gì thì làm? Thế mới thấy, những kẻ được gọi là “tù nhân lương tâm”, những người tự phong mình là anh hùng đấu tranh cho bình đẳng, dân chủ, nhân quyền lại là những kẻ mang nặng tư tưởng phân biệt tầng lớp, kì thị con người. Việc dựng lên cái gọi là “tù nhân lương tâm” suy cho cùng cũng nằm trong toan tính của các đối tượng phản động.
Có thể thấy, nhóm “tù nhân lương tâm” đều là những kẻ phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia, những kẻ chống đối Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Từ lâu, trong chiến lược “diễn biến hoà bình” - chiến lược chống phá Nhà nước CHXHCN Việt Nam từ bên trong bằng phương pháp “hoà bình”, các thế lực thù địch, phản động đã dùng chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, vừa xuyên tạc tình hình trong nước, đả kích chế độ, gây chia rẽ mất đoàn kết dân tộc, vừa gia tăng tuyên truyền tư tưởng, văn hoá, lối sống phương Tây.
Để thực hiện chiến lược này, đội ngũ các đối tượng chống đối, phản động, cơ hội chính trị được sử dụng triệt để. Hiển nhiên, khi các đối tượng có hành vi chống phá an ninh, hoà bình của Việt Nam thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam. Ở chiều hướng ngược lại, các tổ chức phản động cũng tích cực “tẩy trắng” cho các đối tượng tay sai của mình bằng cụm từ “tù nhân lương tâm”.
Với danh nghĩa “tù nhân lương tâm”, các đối tượng mong ngóng sự “cưu mang”, “thương hại” từ bên ngoài. Thậm chí, không ít kẻ còn… muốn đi ngồi tù để được gọi là “tù nhân lương tâm”, tạo điểm nóng, khuếch trương được “thương hiệu”, thu hút “đầu tư” từ các tổ chức chống đối, phản động bên ngoài. Đồng thời, cũng qua chiêu bài “tù nhân lương tâm”, các đối tượng chống đối tạo cơ hội, tạo cái cớ cho những thế lực ngoại bang can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, gây sức ép với chính quyền Việt Nam.
Một lần nữa, thực tiễn khẳng định ở Việt Nam không có cái gọi là “tù nhân lương tâm”. Tất cả những người bị kết án và phải chấp hành hình phạt tù tại Việt Nam đều là những người vi phạm pháp luật hình sự của Việt Nam. Mặt khác, pháp luật Việt Nam là sự thể hiện ý chí của nhân dân Việt Nam, là sự chắt lọc của pháp luật quốc tế. Vì vậy, không có chuyện pháp luật Việt Nam đi ngược lại với thế giới.
Pháp luật giữa các quốc gia trên thế giới không hoàn toàn đồng nhất. Thậm chí, trong một số trường hợp, pháp luật giữa các quốc gia còn có sự xung đột với nhau. Mặt khác, giữa các quốc gia trên thế giới hoàn toàn bình đẳng với nhau. Chính vì vậy, không ai có quyền lấy pháp luật của quốc gia mình áp đặt lên quốc gia khác. Để đánh giá chính xác ở quốc gia nào có “tù nhân lương tâm”, cần phải có sự nghiên cứu một cách chính xác pháp luật quốc tế cũng như pháp luật của quốc gia đó, tránh tình trạng “chụp mũ” một cách hời hợt.

THỦ ĐOẠN THÂM ĐỘC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRONG LỢI DỤNG TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ.

Những năm qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng một số “tổ chức xã hội dân sự” chống phá Việt Nam tập trung vào các hướng sau đây:
- Thực hiện xây dựng xã hội dân sự ở Việt Nam;
- Tác động chuyển hóa, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng;
- Tập hợp lực lượng, sử dụng bạo động dân sự, bạo lực quần chúng để thay đổi chế độ như chúng đã thực hiện thành công, từ “phong trào công đoàn đoàn kết” ở Ba Lan những năm 1989 - 1990 cho đến các cuộc “Cách mạng sắc màu” ở Trung Đông và Bắc Phi thời gian qua.

THỦ ĐOẠN THÂM ĐỘC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRONG LỢI DỤNG TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ.

Phương châm thực hiện của chúng là “3 tại chỗ”:
+ Mâu thuẫn tại chỗ
+ Nguồn lực tại chỗ
+ Giải quyết tại chỗ
Những thủ đoạn chính của các thế lực thù địch, phản động:
Thứ nhất, tuyên truyền, quảng bá xã hội dân sự vào xã hội Việt Nam. Tác động gây sức ép để Việt Nam công nhận vai trò, hoạt động của xã hội dân sự và “tổ chức xã hội dân sự” ở Việt Nam. Triệt để khai thác tính đa dạng về thành phần, mục tiêu thành lập, lợi ích của tổ chức và các thành viên để tập hợp lực lượng, đặc biệt là các đối tượng bất đồng hoặc đa nguyên về tư tưởng, chính kiến.
Thứ hai, tuyệt đối hóa, tối đa hóa tính độc lập của các “tổ chức xã hội dân sự” để thúc đẩy xu hướng thoát ly sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, hình thành các lực lượng đối lập, tổ chức chính trị đối lập. Từng bước hướng lái hoạt động của các “tổ chức xã hội dân sự” (đã hình thành hoặc chuẩn bị hình thành) vào các khuynh hướng tư tưởng chính trị khác nhau, từ đa nguyên về tư tưởng, dẫn tới đa nguyên về chính trị và mục đích cuối cùng là đối lập về tư tưởng chính trị.
Một số “tổ chức xã hội dân sự” mang tính giai cấp rõ rệt. Những người sáng lập không đứng trên lập trường của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Thay vì đặt mục tiêu hoạt động nhằm góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, họ đã hướng lái tổ chức phục vụ cho lợi ích của một số tầng lớp, một nhóm người, đối lập với lợi ích của dân tộc, quốc gia. Vì vậy, họ luôn tìm cách tách hoạt động của tổ chức khỏi sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và các cơ quan chức năng. “Tổ chức xã hội dân sự” của họ chỉ là vỏ bọc, thực chất đó là những tổ chức mang màu sắc chính trị, ẩn chứa trong mục đích thành lập và hoạt động là động cơ và mục đích chính trị. Về lâu dài, đây sẽ là mặt trận đấu tranh giai cấp trên mọi phương diện: chính trị, tư tưởng, văn hóa, kinh tế.
Thứ ba, tối đa hóa vai trò tham gia quản lý nhà nước của các “tổ chức xã hội dân sự”, đề cao và nhấn mạnh vai trò “phản biện xã hội” của các “tổ chức xã hội dân sự” để làm suy giảm niềm tin của nhân dân, khuyếch tán, gia tăng bức xúc trong xã hội. Từ đó, chúng đẩy mạnh từ “phản biện xã hội” lên “phản ứng”, đến “phản đối”, rồi chuyển thành “phản kháng”, chống lại mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Đây cũng là thủ đoạn cơ bản mà các thế lực thù địch, phản động, dưới danh nghĩa ủng hộ quan điểm mở rộng dân chủ ở cơ sở, đảm bảo quyền con người để tuyên truyền, vận động có thêm lực lượng, tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng, các tổ chức phi chính phủ tham gia, từng bước hình thành các “phong trào”, “mặt trận” dân chủ, trở thành lực lượng đối trọng, đối lập với Đảng và Nhà nước ta trong tương lai. Họ triệt để lợi dụng những sai sót, yếu kém trong phát triển kinh tế - xã hội, những chủ trương, chính sách chưa hợp lòng dân, các vấn đề phức tạp nổi lên về an ninh, trật tự để phê phán đường lối của Đảng, đổ lỗi, quy kết trách nhiệm cho Đảng ta trong các vấn đề hạn chế, tồn tại của đất nước, nhất là trong phát triển kinh tế - xã hội, quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế, trong bảo vệ chủ quyền biên giới, biển đảo… Một số tổ chức thông qua hoạt động nghiên cứu, phản biện, tư vấn để truyền bá quan điểm, tư tưởng sai trái, phê phán đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phủ nhận thành quả cách mạng, yêu cầu Đảng ta từ bỏ vai trò lãnh đạo.
Thứ tư, thúc đẩy xã hội dân sự hình thành ở Việt Nam và sử dụng các “tổ chức xã hội dân sự” từng bước tác động, chuyển hóa/thay đổi chế độ ở Việt Nam. Các thế lực thù địch lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” để hướng lái “tổ chức xã hội dân sự” vào các hoạt động trái với tôn chỉ, mục đích, đi theo mục tiêu chính trị, đề cao các “giá trị” tự do, dân chủ, nhân quyền của phương Tây. Chúng tìm cách tuyên truyền, tác động, lôi kéo một số trí thức, văn nghệ sĩ, học sinh, sinh viên, luật sư tham gia, mở rộng phạm vi, không gian hoạt động trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền; phụ họa và tiếp tay cho các thế lực bên ngoài chống phá Việt Nam. Một số người công khai viết, tán phát tài liệu, sách, sử dụng các trang mạng truyền bá những quan điểm, tư tưởng trái chiều, tạo diễn đàn đối lập với Đảng, Nhà nước. Nhiều bài viết, tài liệu công khai cổ vũ, đề cao mô hình “xã hội dân sự” kiểu phương Tây và yêu cầu, hô hào, tác động áp dụng mô hình này vào xã hội Việt Nam để mở rộng diễn đàn dân chủ, phát huy đa nguyên… Các thế lực thù địch còn tăng cường chỉ đạo đẩy mạnh các hoạt động móc nối, tác động chuyển hóa các tổ chức xã hội đích thực ở Việt Nam, nhất là các hội, các tổ chức phi chính phủ, trở thành các “tổ chức xã hội dân sự” kiểu phương Tây, làm mất dần bản chất đích thực, vai trò quan trọng của các tổ chức xã hội hiện nay. Từ đó sẽ trực tiếp chi phối, khích lệ các hoạt động chống đối chế độ, đòi thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở nước ta.
Thứ năm, hỗ trợ các “tổ chức xã hội dân sự” hoạt động và nâng cao năng lực hoạt động. Các thế lực thù địch bên ngoài gia tăng các hoạt động móc nối, liên kết, hậu thuẫn, tài trợ cho những đối tượng “bất đồng chính kiến” trong nước, những người bất mãn trong một bộ phận văn nghệ sĩ, trí thức, luật sư… hoạt động theo khuynh hướng “độc lập”, hình thành “tổ chức xã hội dân sự” đối lập theo mô hình của phương Tây, các nước Đông Âu và Liên Xô trước khi sụp đổ, tan rã.
Chúng phát tán tài liệu, phổ biến kinh nghiệm biểu tình, lật đổ, tiến hành “cách mạng đường phố”, “cách mạng màu”, để cổ vũ, bồi dưỡng năng lực hoạt động cho lãnh đạo của các “tổ chức xã hội dân sự”.

Thứ Tư, 13 tháng 3, 2019

“TÍN DỤNG ĐEN” - NHẬN DIỆN NHỮNG THỦ ĐOẠN HOẠT ĐỘNG NGUY HIỂM VÀ CÁCH PHÒNG TRÁNH

Thời gian gần đây, hoạt động “tín dụng đen” đang có chiều hướng gia tăng và diễn biến hết sức phức tạp ở nhiều địa phương trên cả nước. Khi nhu cầu sử dụng tiền mặt của người dân tăng cao, các đối tượng đã lợi dụng vấn đề cho vay “tín dụng đen” để trục lợi, gây phức tạp đến tình hình an ninh trật tự xã hội. Đã có nhiều người, nhiều gia đình bị sập bẫy nợ của chúng và ngày càng lâm vào cảnh tiền mất tật mang, khó khăn, nợ nần chồng chất. 

“TÍN DỤNG ĐEN” - NHẬN DIỆN NHỮNG THỦ ĐOẠN HOẠT ĐỘNG NGUY HIỂM VÀ CÁCH PHÒNG TRÁNH
Những thủ đoạn của “tín dụng đen”:
Hiện chưa có định nghĩa chính thống về “tín dụng đen”. Tên gọi tín dụng đen xuất phát từ những hoạt động tín dụng không tốt, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người dùng nên người ta thêm từ đen vào từ tín dụng để thể hiện bản chất của nó. Có thể hiểu tín dụng đen là hoạt động cho vay bất hợp pháp với lãi suất rất cao, vượt mức trần lãi suất theo quy định của nhà nước nhiều lần, không thông qua hệ thống ngân hàng, không đăng ký kinh doanh cũng như được cấp phép và không chịu sự quản lý chính thức bởi bất c cơ quan quản lý nhà nước nào.
Đối tượng của “tín dụng đen” rất đa dạng, chúng thường núp bóng các cơ sở cầm đồ, các công ty dịch vụ tài chính, các cá nhân có tiền làm tín dụng bất hợp pháp… câu kết với các nhóm đòi nợ thuê hoạt động ở nhiều tỉnh thành trong cả nước. Cụ thể, trước đây việc hoạt động của các công ty dịch vụ tài chính không được nhà nước cấp phép. Tuy nhiên, từ khi Thông tư số 39/2014/NĐ-CP ngày 07/5/2014 của Chính phủ được ban hành thì hoạt động của các công ty này được Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp phép hoạt động và đang phát triển mạnh, gây ra nhiều hệ lụy, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự xã hội. Giám đốc công ty là người có đủ điều kiện theo quy định, tuy nhiên đa phần là do một số đối tượng hình sự đứng sau điều hành, tổ chức hoạt động. Các công ty này thường cho vay tiền bằng cách không thế chấp, lập hồ sơ mua bán tài sản, sau đó làm hợp đồng cho thuê lại tài sản, viết giấy nhận tiền xin việc… nhưng thực chất là hoạt động “tín dụng đen” với lãi suất cao; các cơ sở kinh doanh dịch vụ cầm đồ thường biến tướng cho vay với lãi suất rất cao dưới hình thức mua bán, cầm cố tài sản; các cá nhân có tiền hoạt động tín dụng bất hợp pháp, cho vay với lãi suất cao; các đối tượng hình sự làm tín dụng, cho vay trong các sới bạc dưới các hợp đồng viết tay, hợp đồng bán nhà, đất, xe ô tô và tài sản có giá trị khác…
Các đối tượng cho vay nặng lãi nêu trên đã đánh trúng tâm lý của người vay: nhanh, gọn, thủ tục đơn giản, thậm chí không cần biết mục đích vay là gì.
Quan hệ dân sự giữa hai bên (bên cho vay và bên vay) diễn ra âm thầm cho đến khi con nợ không trả được mới tổ chức đòi nợ, dẫn đến trường hợp giết người, gây thương tích, bắt giữ người trái pháp luật… Chúng sử dụng nhiều thủ đoạn như khủng bố, đe dọakhiến người dân khiếp sợ, không dám tố cáo hoặc không hợp tác với các cơ quan chức năng, nên gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong việc điều tra, xác minh, xử lý.
Ở một số địa phương, thời gian qua các đối tượng cho vay với hình thức dán tờ rơi quảng cáo ở khu dân cư, trường học, cột điện,… kèm theo số điện thoại để liên hệ. Hình thức vay như bằng tiền mặt, mua nợ vật tư nông nghiệp (phân bón, thuốc trừ sâu…), mua hàng phục vụ sinh hoạt (xe máy, gạo, hàng tiêu dùng…). Thủ tục vay rất đơn giản, nhanh chóng, không cần cầm cố tài sản, chủ yếu tín chấp, dựa trên sự quen biết hoặc thông qua trung gian giới thiệu. Giấy cho vay không có người làm chứng, công chứng, lãi suất chủ yếu thỏa thuận bằng miệng giữa người vay và người cho vay, không thể hiện lãi suất trên tờ rơi quảng cáo, hợp đồng, giấy vay, hoặc ghi lãi suất rất thấp nhưng thực tế thỏa thuận bằng miệng cao gấp nhiều lần…
Điển hình mới đây ở Gia Lai đã xóa sổ tụ điểm cho vay nặng lãi núp bóng Công ty TNHH Nhất Tín Phát Gia Lai (có trụ sở tại 95 Lê Duẩn, Tp.Pleiku; 368, 368A Phạm Văn Đồng, Tp.Pleiku và 863A Hùng Vương, Thị trấn Chư Sê, tỉnh Gia Lai). Ngoài ra, công ty này còn có những địa điểm kinh doanh tại các địa phương khác như Bình Định, Đăk Lăk, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam… hoạt động của chúng núp bóng mua bán, cho thuê xe ô tô, xe máy nhưng thực chất là cho vay nặng lãi với lãi suất 144%/năm.

Để tránh sập bẫy “tín dụng đen”, người dân cần phải:
Một là, nâng cao ý thức bản thân về “tín dụng đen” và nhận thức về pháp luật để tự mình phòng tránh qua việc nhận biết về hình thức này như: tránh xa những quảng cáo kêu gọi vay vốn ưu đãi hay đăng ký thẻ tín dụng không chứng minh thu nhập hoặc thu nhập thấp… tại các bảng thông báo, tờ rơi ở ngã tư, cột điện, khu dân cư. Nên tìm hiểu thông tin vay vốn từ các ngân hàng hoặc các website tài chính uy tín có sự đảm bảo của các cơ quan chức năng nhà nước; cần kiểm tra lại các thông tin với bạn bè, đồng nghiệp, người thân… trước khi có vay vốn tại cá nhân hay tổ chức nào đó. Nếu nhu cầu chưa thật sự cần thiết hãy cân nhắc việc vay vốn.
Hai là, khi thấy các tờ rơi quảng cáo cho vay dán ở khu vực công cộng, xung quanh các hộ dân sinh sống, dán trên cột điện, góc tường … chúng ta nên xé bỏ hoặc bôi xóa số điện thoại nhằm phòng ngừa không để người khác sập bẫy của bọn chúng.
Ba là, khi phát hiện có dấu hiệu của tổ chức “tín dụng đen” hoặc những nhóm thanh niên thuê nhà tạm trú trên địa bàn nghi là tay chân của những tổ chức tín dụng này, cần kịp thời báo với các cơ quan chức năng để có biện pháp ngăn chặn xử lý.   
Thảo Nhiên

Thứ Hai, 11 tháng 3, 2019

KHẮM HƠN MẮM


Tuy chưa đọc hết toàn bộ Dự thảo TCVN - 12607:2019 về quy trình thực hành sản xuất nước mắm nhưng qua những cuộc tranh luận được một số người gọi là “nảy lửa” trên hệ thống thông tin đại chúng vừa qua, tôi thấy ngay từ khâu soạn thảo, Cục Chế biến và phát triển thị trường nông sản (thuộc Bộ NN-PTNT) đã sai khi phân chia nước mắm thành nước mắm truyền thống và nước mắm công nghiệp. Bởi trong hầu như tất cả các tài liệu khoa học của nước ta cho đến này đều không có các khái niệm “nước mắm truyền thống” và “nước mắm công nghiệp”. Chúng ta không cần bàn đến quan điểm của nước ngoài vì đó là lập trường yếm thế, tự ty và vọng ngoại. Tự mình phát minh ra sản phẩm nước mắm thì tại sao lại phải mượn ý kiến người khác bảo vệ sản phẩm ấy?

KHẮM HƠN MẮM

Nói có sách mách có chứng! Từ điển bách khoa Việt Nam (tập 3) do NXB TĐBK, Hà Nội năm 2003, tại trang 324, mục từ “NƯỚC MẮM” đã nêu toàn bộ khái niệm như sau:
1- Về định nghĩa chung: Nước mắm là sản phẩm phân giải Protein ở cá dưới tác dụng của men vi sinh vật yếm khí trong môi trường nồng độ muối cao.
2- Về nhận dạng cảm quan: Nước mắm là chất lỏng, hơi sánh, có màu vàng rơm hay màu nâu cánh gián, mùi thơm, vị mặn có kèm theo vị ngọt tự nhiên của đạm.
3- Về công dụng: Nước mắm được dùng làm gia vị hay NƯỚC CHẤM (dưới đây cũng sẽ có khái niệm về nó).
4- Về thành phần hóa - sinh: Nước mắm có chứa các Acid Amine và Peptid (chủ yếu là depeptid và triepeptid), các chất khóa Calci, Phosphore, Magner, Sắt, Đồng và các Vitamin B1, B2, B12, PP …, có hàm lượng muối từ 270 đến 290 gram/lít. Độ đạm đạt từ 20Ni đến tối đa 40Ni. Hàm lượng Nitro axit amin so với hàm lượng nitro toàn phần đạt 45% đến 55%.
5- Về thành phần nguyên liệu: Nguyên liệu chính để chế biến nước mắm là cá biển và muối. Tốt nhất là dùng cá cơm, cá nục, cá trích.
6- Về quy trình chế biến (sơ bộ): Giai đoạn chế biến “chượp” (có nơi gọi là “chạp”) gồm ngâm ướp, khuấy đảo, kéo rút. Giai đoạn pha đấu gồm việc pha chế các hỗn hợp chất lỏng thu được trong các lần kéo rút với nhau để có được nước mắm cốt, nước mắm đặc, nước mắm loãng các hạng 1, 2, 3 tùy theo độ đạm.
Còn “NƯỚC CHẤM” thì sao? Tại Từ điển bách khoa Việt Nam (tập 3), NXB TĐBK, Hà Nội, 2003, trang 320, mục từ này được diễn giải như sau:
“Nước chấm là dung dịch đạm hòa tan, là sản phẩm phân giải do men, vi sinh vật hoặc sử dụng hóa chất, nhiệt độ. Có vị mặn và thơm ngon, màu từ nâu nhạt đến nâu sẫm, được dùng làm gia vị. Ở Việt Nam, thường dùng các loại nước chấm như nước mắm (chế biến từ cá), tương (từ hạo, ngô và đậu nành), xì dầu (từ đậu nành, lạc), magie (từ protein động vật) .v.v…”
À! Thế thì những sản phẩm được gọi là nước mắm với các nhãn hiệu “Nam Ngư”, “Ông Tây”, “Chinsu” .v.v… mà công ty Masan (Liên doanh với Hàn Quốc, lấy tên một thành phố trước đây là thủ phủ tỉnh Gyeongnam, nay được sáp nhập vào thành phố Changwon của Hàn Quốc) chiếm đến 65% thị phần toàn ngành nước mắm Việt Nam đưa đến cho người tiêu dùng chỉ là loại nước mắm pha loãng, có độ đạm thấp, hàm lượng muối thấp và hầu như không còn mùi vị của nước mắm gốc vì đã được nấu lên và pha chế một số hóa chất, trong đó có cả chất bảo quản thực phẩm. Không ít người đã gọi đây là “sản phẩm thay thế nước mắm” chứ không phải là “nước mắm” theo đúng nghĩa của nó. Nói trắng ra, đó là thứ “nước mắm giả”!
Sở dĩ Masan và các hãng chế biến cái gọi là nước mắm theo kiểu công nghiệp khác phải làm như vậy là vì nếu không có hóa chất bảo quản thực phẩm, cái thứ gọi là nước mắm của họ sẽ mất phẩm chất rất nhanh, thậm chí là bị thối nếu như không dùng chất bảo quản. Còn nước mắm sản xuất theo phương pháp thủ công của người Việt Nam do đã ủ men kỹ và có tỷ lệ muối cao (3 cá/1 muối, tính theo trọng lượng), qua đó loại bỏ các vi sinh vật thối thì có thể để được đến hàng năm mà không cần dùng đến hóa chất bảo quản. Đây chính là vấn đề mà những “nhà tham mưu chính sách” muốn giấu đi khi hoạch định bộ “Tiêu chuẩn nước mắm”.
Vậy thì đây là “tham mưu” hay “mưu tham”? Các vị có dám đưa tiêu chuẩn “không sử dụng hóa chất bảo quản trong thành phần sản phẩm nước mắm” vào bộ tiêu chuẩn không?
Đó là tôi chưa kể đến Công ty Masan còn có thể làm cái gọi là nước mắm từ cá nước ngọt (theo cách của người Lào), làm từ thịt động vật như sản phẩm “Worcestershire” (của người Anh), làm từ “cá trống” nhưng không lên men (theo cách của người Ấn Độ). Tất cả những thứ ấy đều không thể có mùi vị “khắm mà thơm” đặc trưng của nước mắm Việt Nam.
Vậy tôi xin hỏi các nhà tham mưu dự thảo hoạch định chính sách của Cục Chế biến và phát triển thị trường nông sản định lấy cái gì làm tiêu chuẩn chính thức cho nước mắm?
Nếu các ngài lấy cách làm loãng của “Masan” và sản phẩm của “Masan” làm thước đo thì rõ ràng các ngài sẽ chỉ bằng một văn bản pháp quy mà hạ thấp chất lượng một đặc sản truyền thống nổi tiếng bậc nhất của Việt Nam và hơn nữa còn làm mất đi một thương hiệu quý giá mang tính dân tộc, làm mất đi một nét đặc trưng trong bản sắc văn hóa ẩm thực Việt Nam. Không những thế, các ngài còn sẽ làm mất công ăn việc làm của hàng nghìn người, thậm chí là sẽ làm mất cả sản nghiệp của rất nhiều người.
Còn nếu các ngài lấy những tiêu chí mà các nhà khoa học Việt Nam đã đúc kết và được tôi nêu ra trên đây làm tiêu chuẩn của “NƯỚC MẮM” thì tôi cam đoan rằng Masan hay bất cứ một công ty sản xuất nước chấm kiểu công nghiệp nào cũng không thể đạt được. Ngay cả khi họ đạt được những tiêu chuẩn ấy thì họ cũng sẽ phải bỏ ra rất nhiều tiền bạc để đầu tư và lãi suất của họ sẽ giảm xuống, thậm chí là lỗ. Đó mới chính là gốc rễ của vấn đề.
Vì bị dư luận nhất loạt phản đối nên những “nhà tham mưu chính sách nước mắm” vội “chữa cháy” rằng bộ tiêu chuẩn đặt ra nhưng chỉ mang tính khuyến cáo chứ không bắt buộc. Ô hay! Vậy tôi xin hỏi việc lập ra một văn bản có tính pháp quy mà chỉ để khuyến cáo chứ không bắt buộc thì lập ra để làm gì? Để giải ngân cho một số cái gọi là “đề tài khoa học” nào đó ư? Thật là vô bổ và lãng phí! Hãy dẹp bỏ cái bộ quy chuẩn dở hơi ấy đi kẻo “khắm hơn mắm”!