Năm nay, trong những ngày hướng đến kỷ niệm Chiến thắng lịch sử vĩ đại 30/4/1975, nhân dân ta đón mừng sự kiện này với nhiều niềm vui mới. Theo báo cáo của Chính phủ, kinh tế Việt Nam năm 2018 khởi sắc trên cả ba khu vực sản xuất, cung - cầu của nền kinh tế cùng song hành phát triển.
Người yêu nước chân chính là người biết sử dụng pháp luật, đạo đức, truyền thống tốt đẹp để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, đồng thời phải biết tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Nhận diện được phương thức, thủ đoạn lợi dụng lòng yêu nước để kích động nhân dân làm việc xấu chính là nhằm đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp, đồng thời tránh được sự lợi dụng đó để gây ra rối loạn xã hội, phức tạp tình hình.
Từ ngày 03 đến 06/12/2018 tại Hà Nội, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã họp kỳ 32. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương chủ trì kỳ họp.
UBKTTW vừa họp kỳ 26 kết luận vụ AVG có những vi phạm của Ban cán sự đảng Bộ TT-TT, ông Nguyễn Bắc Son, ông Trương Minh Tuấn, ông Phạm Đình Trọng, của Ban Thường vụ Đảng ủy Mobifone và các ông Lê Nam Trà, Cao Duy Hải là rất nghiêm trọng.
Sau 4 ngày làm việc, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng được dư luận đặc biệt quan tâm, trong đó có công tác cán bộ, bởi đây là vấn đề “nóng” trong tình hình hiện nay.
Trận đánh đáng nhớ nhất của quân Đại Nam mà không phải ai cũng biết chính là trận đánh tại nơi mà quân Pháp đặt chân đầu tiên đến Đại Nam vào năm 1858: Đà Nẵng. Cuộc đụng độ đầu tiên đó ghi nhận những nỗ lực to lớn của quân nhà Nguyễn với vũ khí thô sơ, phải đương đầu với vũ khí hiện đại hàng đầu thế giới lúc bấy giờ.
Sau khi liên quân đến đánh chiếm thành Gia Định, sắp đặt xong xuôi, Genouilly đưa 3.000 quân trở lại Đà Nẵng vào ngày 15/4/1859, chuẩn bị tiếp tục cho cuộc chiến tại đây.
Rút lui nhằm bảo toàn lực lượng
Đúng 5 ngày sau vào ngày 20/4/1859, liên quân tấn công vào phía tả ngạn, mở cuộc tấn công dữ dội vào thành Điện Hải. Nguyễn Tri Phương cho quân đánh trả quyết liệt, nhưng đứng trước hỏa lực rất mạnh ông phải cho quân rút lui để bảo toàn lực lượng.
Với mong muốn đánh nhanh thắng nhanh, ngày 8/5/1859 liên quân chia làm 3 cánh tấn công theo 2 hướng nhằm tạo thành gọng kìm siết chặt quân Đại Nam.
Cánh quân của Reybaud đánh từ hướng biển vào, nhắm vào các đồn Du Xuyên, Hải Châu, rồi tiến về Thạc Gián, Phước Ninh. Còn cánh của Faucon thì đánh Thạc Gián, Phước Ninh rồi tiến chếch về phía biển để bắt tay với quân của Reybaud. Trung quân của Lanzarote gồm những tay súng thiện xạ, lúc thì tiến qua trái giúp Faucon, lúc qua phải giúp Reybaud.
Trước đó Nguyễn Tri Phương cho quân và dân Đà Nẵng xây một phòng tuyến dài 3 km chạy từ Điện Hải đến Nại Hiên nhằm phòng thủ.
Sáng sớm ngày 8/5, đạn pháo liên quân nhắm thẳng vào các đồn của Đại Nam mà trút đạn như mưa, các cánh quân cũng lần lượt xuất kích. Do biết trước địa hình phòng thủ của quân Đại Nam từ các đợt tấn công trước, vì thế mà chông tre hay hào sâu không còn làm liên quân bất ngờ. Liên quân vượt qua được các hố chông áp sát lũy đất. Quân Đại Nam dựa vào lũy đất bắn trả, nhưng súng hỏa mai thủ công, chỉ bắn được một phát rồi lại lo nạp đạn nên rất chậm, tằm bắn cũng ngắn. Dù thế quân nhà Nguyễn vẫn kiên cường cố thủ, Hiệp quản Phan Hữu Điểm vì thế mà trúng đạn hy sinh.
Nguyễn Tri Phương quan sát tình thế, thấy không thể tiếp tục cầm cự được, để bảo toàn lực lượng cho các trận đánh sau, ông quyết định rút khỏi phòng tuyến thứ nhất với các đồn Du Xuyên, Thạc Gián, Hải Châu để bảo vệ phòng tuyến thứ 2 là các đồn các đồn Liên Trì, Nại Hiên và Nghi Xuân…
Trong khi đó cánh quân tấn công vào Thạc Gián và hai đồn thượng hạ ở Hải Châu bị đội quân Ứng Nghĩa của Phạm Gia Vĩnh phối hợp cùng quân triều đình đánh cho liên quân tan tác, thua trận phải bỏ chạy về bán đảo Sơn Trà.
Đến hơn 10 giờ sáng thì cuộc chiến kết thúc, quân Đại Nam bị mất 3 đồn lớn cùng 54 khẩu đại bác, Hiệp quản Phan Hữu Điểm cùng 700 binh sĩ tử trận; phía liên quân có hơn 100 người bị tử trận. Đây được xem là trận đánh lớn nhất ở Đà nẵng từ trước đến nay của hai bên.
Thời tiết và bệnh dịch kìm chân Liên quân
Quân Đại Nam rút về phòng tuyến thứ hai phòng thủ khá kiên cố, khiến liên quân không dễ tấn công. Lúc này cái nóng của mùa hè khiến binh lính liên quân rất khó chịu. Tháng 6 và tháng 7 một trận dịch tả hoành hoành ở căn cứ của liên quân khiến số người chết cứ tăng lên. Hai đại úy là Loubière và Gascon Cadubon đã chết bởi bệnh ôn dịch. Trong vòng một tháng (15/6 đến 18/7) tiểu đoàn 3 bị chết 136 người.
Thời tiết nóng nực cùng dịch bệnh làm hao mòn sức tấn công của liên quân. Kể từ khi tấn công Đà Nẵng ngày 1/9/1858 cho đến tháng 7/1859, suốt 10 tháng đó liên quân chỉ chiếm được bán đảo Sơn Trà cùng vài đồn lẻ tẻ ngoài rìa Đà Nẵng mà không tiến sâu vào được.
Mặt khác sau vài lần cho thêm viện binh, bên chính quốc (Pháp) lại khó khăn nên không thể chi viện thêm được nữa. Những điều này đã khiến cho Liên quân bị sa lầy ở Đà Nẵng.
Quân Pháp phải nghị hòa
Để giải quyết tình trạng này, chính quyền Pháp đã lệnh cho De Genouilly phải chủ động nghị hòa với triều đình nhà Nguyễn.
Để có được thế mạnh khi nghị hòa, De Genouilly cho tàu chiến đi bắn phá bãi Cam ở Bình Định, pháo đài Hổ Cứ, thiêu hủy các tàu thuyền của triều đình và người dân vùng Quảng Bình và Quảng Trị.
Đến ngày 20/6/1859 de Genouilly đã đề nghị nghị hòa với chỉ 3 điều khoản ngắn gọn như sau:
Tự do truyền giáo
Tự do thương mại
Mở nhượng địa ở vùng đất nhỏ nhằm đảm bảo việc thực hiện nghị hòa
Triều đình lúng túng, cuộc chiến quả cảm của người Đà Nẵng tiếp tục
Vua Tự Đức nhận được bản nghị hòa này không biết nên làm thế nào, nên đưa ra triều đình để bàn bạc. Tuy nhiên các quan trong triều đình đều có nhiều ý kiến khác nhau, tập trung lại thì có 3 nhóm ý kiến như sau:
Nhóm Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Lưu Lượng cho rằng nên giảng hòa, nhưng trước đó cần củng cố thế trận phòng thủ thật vững rồi hẵng hòa.
Nhóm Trần Văn Trung, Trương Quốc Dụng, Tống Phước Minh, Lâm Duy Hiệp, Phan Huy Vịnh v.v. cho rằng nhà Thanh mạnh thế mà còn không chống cự nổi phương Tây nên mình cũng khó thắng, nên hãy cố thủ cho vững, “lấy cách chủ đãi khách mà đối phó để làm kế trì cửu rồi sau sẽ tùy cơ xử trí.”
Nhóm Tô Linh, Phạm Hữu Nghị, Trần Văn Vi, Nguyễn Đăng Điều, Lê Hiếu Hữu v.v. thì quyết chủ chiến.
Nhiều quan khác cũng góp nhiều ý kiến khác nhau, khiến vua Tự Đức rối như tơ vò nói: “các ngươi biết rằng chiến thủ là khó, không biết rằng hòa lại càng khó hơn”.
Trong khi nhà Vua không biết quyết như thế nào thì Bùi Quị đi công cán từ phía Bắc trở về đã tâu rằng: “Đình thần kẻ nói hòa người nói thủ, kẻ bàn chống người bàn chèo, ai giữ ý nấy, như vậy, gặp việc gấp rút sao giúp nhau được. Xin Hoàng thượng độc đoán, tự định qui mô để ai nấy phải theo.”Vua cho là phải liền giao cho Nguyễn Tri Phương cầm đầu việc thương nghị.
Cuộc thương nghi kéo dài qua hai tháng 7 và 8 nhưng không đi đến được kết quả nào, bởi 3 điều mà Pháp đưa ra đều là những điều cấm kỵ đối với triều đình nhà Nguyễn.
Giữa lúc hai bên đang bàn nghị hòa thì tháng 8/1859, Nguyển Tư Giản dâng mật sớ tâu không nên hòa. Sự việc được quyết định rồi, nay có người tâu nên làm khác đi khiến nhà Vua không biết nên xử trí ra sao, nên lại đưa ra bàn với các đại thần trong triều.
Phan Thanh Giản và Trương Đăng Quế cho rằng việc nhượng đất là không chấp nhận được; việc tự do thương mại thì đã có lệ, tức có thể đến buôn bán nhưng không được lập cơ sở; còn việc truyền giáo có thể bỏ lệnh cấm truyền giáo nhằm chấm dứt can qua.
Nhà Vua nhiều việc không biết nên quyết định ra sao, nên ý chỉ truyền đến Nguyễn Tri Phương không được rõ ràng, vì thế trên bàn nghị hòa một số việc Nguyễn Trí Phương lúng túng không biết xử lý như thế nào cho đúng ý Vua.
Genouilly thấy việc nghị hòa kéo dài mà không đưa đến được kết quả nào, cho rằng phía Đại Nam không có thiện chí, mượn cớ nghị hòa nhằm kéo dài thời gian để củng cố lực lượng. Lúc này mùa hè sắp qua, những khó khăn về thời tiết nóng nực hay dịch bệnh cũng không còn, vì thế vào ngày7/9 Genouilly tuyên bố chấm dứt nghị hòa, chuẩn bị cuộc chiến vào phòng tuyến thứ 2 nhằm thẳng tiến đến trung tâm Đà Nẵng.
Và cuộc chiến quả cảm của người Đà Nẵng chống lại đội quân được trang bị hiện đại hàng đầu thế giới lại tiếp tục.
Trận đánh đáng nhớ nhất của quân Đại Nam mà không phải ai cũng biết chính là trận đánh tại nơi mà quân Pháp đặt chân đầu tiên đến Đại Nam vào năm 1858: Đà Nẵng. Cuộc đụng độ đầu tiên đó ghi nhận những nỗ lực to lớn của quân nhà Nguyễn với vũ khí thô sơ, phải đương đầu với vũ khí hiện đại hàng đầu thế giới lúc bấy giờ.
Quân Pháp đến Đà Nẵng
Thế kỷ 16 người Tây phương với vũ khí hiện đại đã dòm ngó và thôn tính các vùng đất ở phương Đông. Năm 1563, người Bồ Đào Nha xâm nhập Ma Cao. Năm 1568, người Tây Ban Nha chiếm Philippines, người Hà Lan chiếm Indonesia.
Sang thế kỷ 18, người Pháp cũng muốn chiếm thêm các nước bản địa ở Đông Nam Á. Sau hai đợt ra quân nhằm thăm dò lực lượng phòng thủ bờ biển của nhà Nguyễn ở Đà Nẵng, năm 1857, người Pháp quyết định chọn Đà Nẵng để tấn công đầu tiên, bởi nơi đây có hải cảng sâu và rộng rãi, rất thuận tiện cho các tàu chiến tiến vào, dễ dàng sang Lào và Campuchia, lại chỉ cách kinh đô Huế chỉ khoảng 100 km, đáp ứng được yêu cầu “đánh nhanh thắng nhanh”.
Để tấn công Đà Nẵng, quân Pháp có thêm đồng minh là Tây Ban Nha. Ban đầu lực lượng liên quân có 3.000 quân (phía Tây Ban Nha có 450 quân) cùng 14 chiến hạm, trong đó có soái hoạm Némésis. Đây là những chiến hạm hiện đại nhất vào thời điểm đó, mỗi chiến hạm được trang bị 50 đại bác với sức công phá rất mạnh.
Lực lượng quân Đại Nam ban đầu có 2.000 lính chính quy dưới sự chỉ huy của Tổng đốc Trần Hoằng.
Quân Pháp do phó Đô đốc Hải quân De Genouilly chỉ huy, quân Tây Ban Nha do đại tá Lanzarotte chỉ huy xuất phát từ đảo cảng Yulikan đảo Hải Nam (Trung Quốc) tiến đến Đà Nẵng bắt đầu cuộc chiến tại Đông Dương. Đến chiều tối ngày 31/8/1858, toàn bộ lực lượng liên quân đã có mặt tại cửa biển Đà Nẵng.
Cuộc chiến bắt đầu
Bản đồ cuộc chiến tại Đà Nẵng. (Ảnh từ art2all.net)
Sáng 1/9, De Genouilly gửi tối hậu thư cho tướng trấn thủ Đà Nẵng yêu cầu trong 2 giờ phải giao nộp toàn bộ thành trì. Sau 2 giờ vẫn không nhận được trả lời, De Genouilly ra lệnh khai hỏa, lập tức toàn bộ đại bác đặt trên các chiến hạm bắn vào cửa sông Đà Nẵng cũng như các đồn trong bán đảo Sơn Trà.
Sau nửa giờ nã pháo dồn dập nhằm vô hiệu hóa khả năng phòng thủ, De Genouilly ra lệnh cho quân sĩ đổ bộ. Liên quân đổ bộ tấn công phía hữu ngạn, vừa đi vừa hô “Vive l’Empereur!” (tức Hoàng Đế vạn tuế) dưới sự yểm trợ của đại bác trên các chiến hạm, sức công phá mạnh mẽ khiến các pháo đài quân Đại Nam bị tiêu diệt. Thành An Hải cùng các pháo đài Phòng Hải, Trấn Dương, các Đồn trấn thủ đều lần lượt lọt vào tay quân Pháp. Chiều ngày 1/9, liên quân làm chủ hoàn toàn vùng Tiên Sa.
Liên quân đổ bộ tấn công. (Ảnh từ infonet.vn)
Liên quân tấn công Đà Nẵng. (Ảnh từ wikipedia.org)
Sau khi chiếm được phía hữu ngạn, sáng ngày 2/9 liên quân tiến đánh phía tả ngạn, tàu El Cano của Tây Ban Nha cùng 5 tàu khác nã pháo liên tục vào thành Điện Hải – căn cứ chủ yếu của Đà Nẵng. Quân Đại Nam sau nửa giờ chịu đựng hỏa lực của đạn pháo đã quyết định vừa bắn vừa lùi, lập phòng tuyến Liêu Trì trước huyện Hòa Vang để ngăn liên quân tiến sâu vào Đà Nẵng.
Liên quân sau khi chiếm được thành Điện Hải thì phá hủy hết kho tàng vũ khí rồi rút vào Tiên Sa vì lo ngại nếu ở lại có thể gặp phải đợt phản công; đồng thời phòng thủ Mỹ Khê đề phòng bị đánh vào mạn sườn ở phía Đông.
Liên quân thu được 450 đại bác bằng đồng và gang, được xem là đẹp và tốt hơn đại bác của Trung Quốc mà quân Pháp thu được ở Quảng Đông, tuy thế vẫn kém nhiều so với đại bác được liên quân trang bị. Phía liên quân cũng bắt được 100 binh sĩ và 3 quan võ.
Tại Huế vua Tự Đức nghe tin liền cách chức Tổng đốc Trần Hoằng, cho Đào Trí lên tạm thay, đồng thời cho 2.000 cấm vệ quân tinh nhuệ của nhà Nguyễn từ Huế đến tiếp viện.
Lúc này liên quân làm chủ bán đảo Tiên Sa ở hữu ngạn. Sau khi liên quân rút khỏi phía tả ngạn, quân Đại Nam đã đến và cố gắng củng cố trở lại.
Ngày 13-9-1858, Genouilly lại nhận thêm viện binh từ Manila do tàu Durance chở đến, gồm 550 người, cả lính và sĩ quan, do đại tá Lanzarote chỉ huy.
Khi súng hỏa mai phải chống lại vũ khí hiện đại bậc nhất thế giới
Ngày 6/10 tàu quân Pháp đi ngược sông Hàn tấn công các cứ điểm phòng thủ của quân nhà Nguyễn, đổ bộ tấn công đồn Mỹ Thị. Quân Nguyễn đưa binh đến ứng cứu, hai bên đánh nhau to ở làng Cẩm Lệ. Quân Đại Nam phải đối mặt với loại súng trường bắn rất nhanh và chính xác so với thời đó. Tuy nhiên quân Nguyễn chỉ có súng hỏa mai (điểu thương cò máy đá), bắn được một viên thì lại lo nạp đạn, khoảng cách sát thương rất gần, lại trang bị thiếu thốn. Thế nhưng quân Nguyễn vẫn cố gắng đến cùng nhằm ngăn cản quân Pháp. Thống chế Lê Đình Lý chỉ huy quân đến ứng cứu bị thương nặng, vài hôm sau thì mất.
Súng hỏa mai (điểu thương) của quân nhà Nguyễn.
Hồ Đắc Tú chỉ huy đồn Hóa Khuê dù ở gần đó nhưng khi nghe tiếng súng ầm ầm và hỏa lực mạnh của Pháp thì lo sợ đóng chặt cửa mà không cho quân đi ứng cứu. Cuối cùng dù với vũ khí thô sơ nhưng với nỗ lực tận cùng, quân Đại Nam cũng giữ được đồn Mỹ Thị, quân Pháp phải rút lui khỏi đây.
Vua Tự Đức cho cách chức Hồ Đắc Tú, rồi cử tướng Nguyễn Tri Phương làm Tổng thống Quân vụ Quảng Nam, Nguyễn Thế Hiển làm tham tán, với hy vọng ngăn được quân Pháp
Đến Đà Nẵng, Nguyễn Tri Phương sau khi nắm tình hình cho rằng vũ khí của liên quân hiện đại và hỏa lực mạnh vượt xa vũ khí của mình, nên chủ trương tránh đánh trực diện để tránh sức mạnh hỏa lực của đối phương, thực hiện “vườn không nhà trống” nhằm cắt nguồn lương thực, cho quân mai phục nếu bên liên quân tấn công.
Tháng 11/1858, quân Pháp lại cho tàu đi ngược sông Hàn vào sông Nại Hiên mở cuộc tấn công mới, quân Đại Nam mai phục hai bên bờ sông, khi quân Pháp đến thì bất ngờ xông ra đánh, quân Pháp thất bại phải rút lui.
Ngày 21/12, quân Pháp lại cho tàu ngược sông Hàn đánh các đồn Nại Hiên và Hóa Khuê. Dưới hỏa lực quân Pháp, quân Đại Nam đã anh dũng chống lại. Dù quân Pháp vừa đông vừa có vũ khí mạnh hơn, quân cứu viện không đến kịp, nhưng hai tướng chỉ huy là Nguyễn Triều và Nguyễn An vẫn quả cảm cùng quân binh chống lại đến cùng cho đến khi cả hai đều trúng đạn và tử trận. Quân tiếp viện dù đến muộn nhưng đã nỗ lực tấn công đánh thẳng vào quân Pháp khiến quân Pháp phải tháo chạy.
Sự ra đi của hai tướng Nguyễn Triều và Nguyễn An gây xúc động và cũng giúp động viên rất lớn đến quân Đại Nam ở Đà Nẵng. Vua Tự Đức cũng tiếc thương mà than rằng: “Quân đã cô, cứu viện lại không có; một quan tướng đã khó tìm, huống chi chết đến hai; bọn tổng đốc (chỉ Nguyễn Tri Phương) không đau lòng sao?”.
Sau đó quân Pháp còn vài lần cho quân tiến đánh nhưng lần nào quân Đại Nam cũng anh dũng chống trả quyết liệt, khiến quân Pháp gặp tổn thất lớn mà không chiếm được đồn nào.
Tiếng hô của quân Pháp “Vive l’Empereur!” (tức Hoàng Đế vạn tuế) ngày đầu đến Đà Nẵng cũng biến mất không biết từ khi nào.
Chỉ huy quân Pháp: Đô đốc De Genouilly.
Liên quân bị sa lầy ở Đà Nẵng
Tháng 1/1859, sau khi nghiên cứu trận địa, Nguyễn Tri Phương và Phạm Thế Hiển cho xây thêm một đồn ở Liên Trì.
Quân Pháp cho quân tấn công Thạc Gián và Nại Hiên, quân Đại Nam tránh đánh đối mặt mà mai phục sẵn đợi quân Pháp rồi đánh, khiến quân Pháp tiếp tục nhận thảm bại và rút lui. Vua Tự Đức hay tin đã gửi tặng Nguyễn Tri Phương một thanh ngự kiếm và sâm quế để khích lệ.
Nguyễn Tri Phương lại cho đắp một lũy đất chạy từ thành Điện Hải bao quanh Hải Châu, Phước Ninh, Thạc Gián. Bên ngoài lũy là hào sâu đào theo kiểu chữ “Phẩm” (品), dưới đáy cắm đầy chông tre, trên đậy bằng vĩ tre phủ đất và trồng cỏ ngụy trang. Sau lũy luôn luôn có quân mai phục, sẵn sàng nổ súng chống trả.
Khi bên liên quân ba mặt tấn công vào đồn, số bị rơi xuống hào sâu, số bị chông tre đâm, số còn lại bị quân Đại Nam phục kích bắn. Liên quân bị tổn thất rất nhiều, phải rút hẳn về căn cứ ở Tiên Sa.
Vua Tự Đức nhận tin vui thì lệnh ban thưởng tiền cho quân sĩ, lệnh cho tỉnh Quảng Nam mang thịt trâu cùng rượu ra chiến tuyến để khao quân sĩ.
Liên quân thất bại và hoàn toàn sa lầy ở Đà Nẵng. Diễn biến tại đây vượt xa dự đoán lạc quan ban đầu của Pháp và Tây Ban Nha. Ban đầu khi hoạch định kế hoạch đánh Đại Nam, người Pháp cho rằng với vũ khí hiện đại của phương Tây, việc giành chiến thắng sẽ không khó khăn, chiếm được Đà Nẵng rồi đến kinh đô Huế, buộc triều đình phải đầu hàng nhằm nhanh chóng kết thúc cuộc chiến. Nhưng viễn cảnh Đà Nẵng lại hoàn toàn trái ngược.
Quân Pháp cũng muốn dùng các chiến hạm của mình đến đánh thẳng vào kinh thành Huế, nhưng các chiến hạm hiện đại của Pháp chỉ di chuyển được vùng đáy sâu, không vào được lòng sông cạn dẫn đến kinh thành.
Để giải quyết việc bị sa lầy ở Đà Nẵng, quân Pháp quyết định chuyển hướng sang tấn công Sài Gòn – Gia Định, bởi việc tấn công vào nơi đây có lợi thế là thuận theo gió mùa và sông sâu. Sài Gòn lại là trung tâm kinh tế lớn, trù phú.
Với số viện binh mới sang, ngày 2/2/1859, liên quân Pháp – Tây Ban Nha với 2.176 lính và sĩ quan cùng 10 chiến hạm (9 của Pháp, 1 của Tây Ban Nha), 4 thương thuyền chở quân dụng rời Đà Nẵng tiến về phía Nam.
Đại tá Faucon cùng vài trăm quân ở lại căn cứ Tiên Sa cố thủ chờ quân chủ lực.
Cuộc chiến cầm cự
Ngay sau khi phần lớn quân Pháp tiến về Gia Định, Nguyễn Tri Phương cùng Phạm Thế Hiển nhanh chóng củng cố lại các phòng tuyến, đặc biệt là thành Điện Hải vốn bị liên quân phá hại nặng nề. Đồng thời cũng cho các nhóm quân nhỏ đột kích nhằm tiêu hao sinh lực liên quân, thế nhưng phía liên quân phòng bị từ xa với hỏa lực rất mạnh, nên những cuộc đột kích chỉ có tác dụng quấy rối chứ không gây thiệt hại nhiều cho phía liên quân.
Tàu chiến Pháp bắn phá Đà Nẵng. (Ảnh từ wikipedia.org)
Faucon thấy bị đột kích nhiều thì cũng không ngồi yên chịu trận. Ngày 6/2 liên quân tiến đánh đồn Hải Châu nhưng bị đầy lùi, 3 thuyền chở quân của Pháp bị cháy.
Hôm sau 7/2, liên quân kéo đến đông hơn tấn công đồn Hải Châu cả 3 mặt, quân Đại Nam với vũ khi thô sơ bắn từng phát một nhưng vẫn cố cầm cự trước hỏa lực điên cuồng của liên quân. Hai Hiệp quản Nguyễn Tình Lương và Lê Văn Đa bị trúng đạn nằm xuống. Đề đốc Tống Phước Minh thấy tình thế không giữ được thành, để bảo toàn lực lượng liền cho rút quân về giữ đồn Phước Ninh đồng thời chờ viện binh.
Khi viện binh đến quân Đại Nam dũng mãnh tấn công đẩy lui quân Pháp, chiếm lại được đồn Hải Châu. Tuy thế với vũ khí thô sơ, quân Đại Nam bị thiệt hại 1.000 quân.
Đến tháng 3/1859, Faucon lại đưa quân tấn công Hải Châu và Thạc Gián. Đứng trước hỏa lực mạnh mẽ của liên quân, binh lính Đại Nam vẫn chiến đấu kiên cường khiến liên quân không thể làm gì được, đành rút lui.
Chuyện anh nông dân Phạm Văn Hát (1972) chưa qua bất kỳ trường lớp đào tạo nào nhưng đã sáng chế ra nhiều sản phẩm máy nông nghiệp xuất khẩu đi hơn 10 quốc gia và tiêu thụ ở khắp các tỉnh, thành phố trên cả nước khiến nhiều người phải nể phục.
Nhưng với những người nông dân Hải Dương thì những việc làm của Phạm Văn Hát đã không còn là chuyện lạ. Bởi các sáng chế của anh được ra đời từ những cánh đồng quê và phục vụ rất hiệu quả hoạt động sản xuất của bà con nông dân.
Xã Ngọc Kỳ (huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương)-quê hương của Phạm Văn Hát cách TP Hải Dương hơn 10 cây số. Về Ngọc Kỳ, hỏi bất kỳ ai, họ cũng đều biết rất rõ về Phạm Văn Hát-“nhà sáng chế” tài năng của quê hương.
Là người dám nghĩ, dám làm, năm 2007, Phạm Văn Hát mạnh dạn vay 3 tỷ đồng đầu tư trang trại trồng rau sạch. Tuy đã ký được nhiều hợp đồng với các công ty trong tiêu thụ sản phẩm, nhưng kết cục Phạm Văn Hát vẫn trắng tay. Bởi lẽ, việc các công ty ký hợp đồng với anh chỉ nhằm mục đích "tạo cớ" để dễ dàng đưa rau không đủ tiêu chuẩn vào siêu thị. Sau 3 năm (2007-2010) gắn bó với trang trại, Phạm Văn Hát trở thành người tay trắng. Anh quyết định sang Israel để vừa lao động kiếm sống, vừa học hỏi kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp. Không ngờ, Israel là mảnh đất nảy nở nên “cái duyên” sáng chế máy nông cụ của Phạm Văn Hát.
Phạm Văn Hát (bên phải) giới thiệu với khách hàng chiếc máy phun thuốc trừ.
Trò chuyện cùng chúng tôi, Phạm Văn Hát cho biết: "Năm 2010, tôi sang Israel với mục đích học kinh nghiệm trồng rau sạch, sau này về quê làm kinh tế để trả nợ. Đất nước Israel rất văn minh và có nền khoa học hiện đại, nhưng vẫn còn nhiều công đoạn trong sản xuất nông nghiệp phải làm thủ công. Một hôm, ông chủ yêu cầu tôi đi rải phân. Thấy cái máy làm việc chưa “ngon”; nhưng do không biết ngoại ngữ nên tôi ra hiệu, ý nói với ông chủ cần cải tiến, hoặc làm cái máy khác. Hiểu ý tôi, ông chủ hỏi lại: "Liệu anh có làm được chiếc máy đó không? Anh làm trong bao lâu và nó có thể thay thế được bao nhiêu người?". Nghe ông chủ hỏi vậy, tôi gật đầu và giơ hai bàn tay (ý nói máy thay thế được 10 người). Thế là ông chủ liền gọi người đến phiên dịch để biết rõ ý tưởng của tôi".
Vậy là từ hôm đó, đêm đêm anh thiết kế, tính toán số liệu và bắt tay vào chế tạo chiếc máy rải phân. Máy làm xong, đem ra cánh đồng thử nghiệm mang lại kết quả bất ngờ. Bố con ông chủ ôm chặt lấy anh cảm ơn. Anh nói với họ, chiếc máy vẫn chưa được như ý muốn. Sau đó, Phạm Văn Hát làm tiếp chiếc thứ hai, đến chiếc thứ ba thì kết quả mãn nguyện. Ông chủ thưởng anh 10.000USD và đề nghị được mua bản quyền; đồng thời nâng lương cho anh từ 1.000USD lên 2.500USD (năm 2010) và còn mời Đại sứ quán Việt Nam đến chia vui.
Sau khi chế tạo và cải tiến thành công thêm nhiều loại máy cho ông chủ, hơn một năm sau, anh xin về nước. Mặc dù ông chủ trả lương cao và rất ưu ái, tạo điều kiện cho anh làm việc, cùng với đó, tên tuổi và những sản phẩm máy nông nghiệp của anh được nhiều người ở Israel và người Việt Nam sinh sống, làm việc tại đó biết đến, song năm 2012, anh quyết định trở về quê nhà để cống hiến cho đất nước và được gần vợ con, anh em, làng xóm. Ít lâu sau đó, người của ông chủ ở Israel sang Việt Nam, tìm về quê và mời anh quay lại làm việc, nhưng anh quyết định ở lại quê hương mình.
Khi Phạm Văn Hát về nhà được ít ngày, anh trai của anh là Phạm Văn Ka không thuê được người đặt hạt cho kịp thời vụ, nên mang câu chuyện trên phàn nàn với anh. Biết chuyện, Phạm Văn Hát nảy ra ý tưởng chế tạo một chiếc máy rải hạt. Hơn một năm nghiên cứu, chiếc máy gieo hạt đầu tiên ra đời trong niềm vui của hai anh em. Tuy chiếc máy do anh sáng chế còn những khiếm khuyết và công suất chưa cao, nhưng đó là sự cổ vũ để Phạm Văn Hát có niềm tin vào công việc. Sau nhiều lần quan sát, thử nghiệm trên đồng, anh tiếp tục cải tiến, hoàn thiện để máy đạt đến độ chính xác tuyệt đối.
Năm 2014, chiếc máy gieo hạt của anh lần đầu xuất hiện trên thị trường và lập tức được nhiều người tìm đến đặt mua. Anh gọi sản phẩm của mình là "Robot đặt hạt". Ưu điểm của máy là có thể điều chỉnh đặt hạt chính xác theo cự ly định sẵn. Một "Robot đặt hạt" của anh thay thế được cho 40 người làm việc. Vì thế, nếu có máy, gia đình không phải lo thuê lao động đặt hạt cho kịp thời vụ, mà còn chủ động thời gian gieo hạt, trồng trọt. Sau hai năm nghiên cứu, chế tạo (2012-2014), "Robot đặt hạt" với thương hiệu Phạm Văn Hát đã có mặt không chỉ ở thị trường trong nước, mà còn chiếm lĩnh nhiều thị trường các nước, như: Mỹ, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan…, với giá 2.500 USD/chiếc. Thông qua internet, khách hàng tìm đến Đại sứ quán Việt Nam ở nước họ để tìm hiểu những thông tin cần thiết về Phạm Văn Hát; địa chỉ giao dịch và đặt hàng. Nhờ sự giúp đỡ của cán bộ, nhân viên Đại sứ quán Việt Nam ở các nước, "Robot đặt hạt" của anh nhiều lúc bị “cháy” hàng. Ở trong nước, khách hàng các tỉnh phía Nam và miền Trung đặt mua khá nhiều. Anh Hát cho biết: “Nhiều người đánh tiếng trả 3 tỷ đồng để mua bản quyền, nhưng tôi không bán. Bởi tôi nghĩ, người nông dân vốn rất vất vả, mua một chiếc "Robot đặt hạt" với giá trong nước khoảng 20 triệu đồng đã là một nỗ lực lớn. Vì thế, nếu bán bản quyền, người ta nâng giá thì đối tượng chịu thiệt thòi chính là người nông dân".
Chúng tôi được Phạm Văn Hát đưa vào xưởng sản xuất để xem chiếc máy phun thuốc trừ sâu có giá 65 triệu đồng do anh chế tạo vừa mới “ra lò”, đang chờ người mua đến nhận. Chiếc máy nhìn khá đơn giản, nhưng lại rất hữu ích đối với người nông dân. Máy phun có sải cánh bề ngang 20m, mỗi lượt phun được 20m. Với thời gian 20 phút, máy phun được 2 mẫu ruộng, có thể thay thế cho 40 lao động. Bánh xe của máy có đặc trưng khi hoạt động dưới ruộng không chèn lên lúa, thiết kế phi trục nhỏ, trên bánh xe có gắn các vấu để máy có thể vượt qua các chướng ngại vật một cách dễ dàng. Đặc biệt, hệ thống điều khiển cánh tay phun được thiết kế bằng thủy lực nên vận hành rất nhẹ nhàng, thuận tiện.
Sau 5 năm miệt mài lao động, đến nay, Phạm Văn Hát không những đã trả được hết khoản nợ 3 tỷ đồng, mà còn có điều kiện để mở rộng quy mô sản xuất, tạo việc làm cho một số lao động ở địa phương với mức lương khoảng 7,5 triệu đồng/người/tháng. Cùng với đó, những loại máy móc do anh sáng chế đã góp phần quan trọng giải phóng sức lao động của người nông dân, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tạo điều kiện để đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp theo chủ trương của Đảng.
Với những đóng góp quan trọng trong phát triển nông nghiệp, nông thôn, năm 2016, Phạm Văn Hát được Hội Nông dân Việt Nam tặng danh hiệu “Nông dân Việt Nam xuất sắc” và tham dự Đại hội điển hình nông dân tiên tiến toàn quốc. Anh cũng được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba. Kết thúc bài viết này, chúng tôi xin dẫn lời Đại sứ Việt Nam tại Israel nói về anh: “Người Việt Nam ra nước ngoài, có những tài năng như Phạm Văn Hát, thì thật đáng tự hào và góp phần làm rạng danh đất nước, con người Việt Nam”.
Mỗi khi một cuộc “cách mạng màu” hạ màn, hoặc “gió mùa xuân” đã thổi qua một quốc gia nào đó thì dân chủ, nhân quyền lại trở nên sa sút, tham nhũng ngày càng lan tràn, và quyền lực lại được sử dụng làm công cụ chủ yếu giúp một số phe phái chính trị thanh toán, triệt hạ lẫn nhau…
Ngày 11-11-2016, đề cập báo cáo của Ủy ban Kinh tế, Xã hội vùng Tây Á (ESCWA) thuộc Liên hợp quốc mới công bố, bài Mùa xuân Ả Rập “gây tổn thất cho khu vực 600 tỷ USD” trên trang BBC tiếng Việt cho biết “phong trào mùa xuân Ả Rập” khiến khu vực này tổn thất 614 tỷ USD do từ năm 2011 đến nay không tăng trưởng; con số này tương đương với 6% tổng GDP của khu vực trong thời gian từ 2011 đến 2015.
Báo cáo mô tả tiến trình xã hội ở khu vực là “ảm đạm”, quyền công dân bị thụt lùi tại một số quốc gia. Số liệu cũng cho thấy các cuộc xung đột làm tồi tệ thêm tình trạng nợ nần, thất nghiệp, tham nhũng, đói nghèo, làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng tị nạn. Libya, Yemen, Syria vẫn đang trong tình trạng nội chiến, tổn thất hàng chục nghìn nhân mạng, rơi vào tình trạng chính quyền trung ương không hoạt động nổi.
Tại Syria, các cuộc biểu tình chống chính phủ dâng cao thành cuộc xung đột với sự can dự của các thế lực nước ngoài, GDP và tổn thất kinh tế từ năm 2011 đến nay đã tới 259 tỷ USD. Tại các nước có tiến trình chuyển giao chính trị, chính phủ mới đã không đáp ứng được việc cải cách kinh tế để xử lý những vấn đề dẫn tới tình trạng bạo loạn từ lúc ban đầu… Như vậy, có thể thấy cái gọi là “phong trào mùa xuân Ả Rập” không mang lại điều tốt lành mà chỉ đẩy các quốc gia liên quan vào tình trạng trì trệ, rối ren, bạo lực gia tăng, đất nước bị chia cắt.
Chẳng hạn ở Syria, theo trả lời phỏng vấn ngày 11-8-2016 của bà K. Leukefeld (nhà nghiên cứu dân tộc học, chính trị học, hồi giáo; từ năm 2000 là phóng viên tự do ở Trung Đông và thường xuyên có mặt ở Syria, và là tác giả cuốn Syria giữa bóng tối và ánh sáng xuất bản năm 2015) trên NachDenkenSeiten – một trang mạng có uy tín ở CHLB Đức, thì: “Một người đối thoại nói rằng, Syria không phải là một khối lắp ghép của các tôn giáo và dân tộc, vì nếu như thế nó đã bị tan vỡ rồi. Syria là một tấm thảm dệt có liên kết chắc chắn. Nhưng nó đã bị mất màu, bị dày vò và trong đó có bộ phận đã bị xé rách”. Còn theo ông S.L Whitson – Giám đốc điều hành HRW, phát biểu trên tờ The New Yorker thì: “Dường như cộng đồng quốc tế cũng như nhiều người dân ở đó đã ngây thơ, đã hiểu lầm khi cho rằng những gì Tunisia làm được là rất dễ… Người Ai Cập cũng lật đổ một nhà độc tài, nhưng chúng ta đã đánh giá thấp các lực lượng cản trở dân chủ, nhân quyền – cũng như những lực lượng đàn áp, hủy diệt khác, vì họ đã nhanh chóng chiếm lấy các khoảng trống được tạo ra bởi các cuộc nổi dậy”.
Từ cái chết của M.Bouazizi ở Tunisia vào năm 2010, “phong trào mùa xuân Ả Rập” được phát động ở Tunisia rồi nhanh chóng lan tới Algeria, Yemen, Jordan, Mauritanie, Syria, Oman, Ả Rập Saudi, Ai Cập, Iraq, Libya, Sudan, Maroc. Điều được quảng bá và cổ vũ của phong trào này là nhân quyền, dân chủ, chống tham nhũng, độc tài. Và “mùa xuân Ả Rập” đã khiến chính phủ ở Tunisia, Libya, Yemen, Ai Cập sụp đổ.
Tuy nhiên sau hơn 5 năm, không chỉ tại các nước này mà cả vùng Trung Đông, Bắc Phi trở thành một điểm nóng, chưa thấy dấu hiệu sáng sủa mà ngày càng trở nên tồi tệ. Khẩu hiệu dân chủ, nhân quyền được những tổ chức, cá nhân khởi xướng “mùa xuân Ả Rập” giương cao đã không được hiện thực hóa mà thay vào đó là tình trạng cuộc sống của người dân ngày càng cùng cực, đói nghèo lan rộng, chết chóc rình rập. Tunisia – nơi được xem chuyển giao quyền lực diễn ra trong hòa bình và thành công, lại là nước đóng góp khoảng 3.000 chiến binh cho tổ chức tự xưng “nhà nước Hồi giáo” (IS) và năm 2015 tại Tunisia xảy ra các vụ khủng bố đẫm máu.
Rồi nội chiến ở Libya để tranh giành quyền lực và dầu mỏ, tranh thủ cơ hội, IS đã xâm nhập chiếm đất đai và gây ảnh hưởng. Các xung đột ở Yemen có nguồn gốc từ mâu thuẫn chính trị, tôn giáo, sắc tộc và hậu quả là gần 80% dân số Yemen sống nhờ vào viện trợ nước ngoài. Riêng Syria, khung cảnh đất nước hoang tàn, hơn 250.000 người thiệt mạng đã nói lên tất cả, như IMF dự đoán, Syria phải cần ít nhất 20 năm với mức tăng trưởng 3% mỗi năm mới có thể trở lại mức thu nhập trước chiến tranh… Hệ lụy kinh khủng nhất từ “mùa xuân Ả Rập” là tạo ra cơ hội đưa tới sự ra đời các tổ chức khủng bố, tiêu biểu là IS.
Dẫu mới ra đời, IS đã không chỉ hoành hành ở Trung Đông, Bắc Phi, mà còn tổ chức hoặc đứng sau một số vụ khủng bố tàn bạo trên thế giới. Hệ lụy khác là để tránh chiến tranh, đói nghèo, chết chóc,… làn sóng di cư hàng triệu người đã đẩy châu Âu vào cuộc khủng hoảng nhập cư đến nay vẫn chưa tìm ra lời giải… Vì thế, hẳn không ngẫu nhiên, dư luận đã sớm đổi tên “mùa xuân Ả Rập” thành “mùa đông Ả Rập”!
Nhắc tới “mùa xuân Ả Rập” không thể không nhắc tới “cách mạng 5-10” ở Serbia năm 2000, “cách mạng hoa hồng” ở Gruzia năm 2003, “cách mạng cam” tại Ukraina năm 2004, “cách mạng hoa tuy-líp” tại Kyrgyzstan năm 2005,… được khái quát qua khái niệm “cách mạng màu”. Có lẽ trường hợp tiêu biểu nhất liên quan “cách mạng màu” là hoạn lộ của M.Saakashvili, cựu Tổng thống Gruzia. Sau “cách mạng hoa hồng”, M.Saakashvili đã được bầu làm Tổng thống Gruzia liền hai nhiệm kỳ.
Báo chí cho biết, đến cuối nhiệm kỳ thứ hai, tại Gruzia xuất hiện một số “khủng hoảng chính trị, khiến Saakashvili từ người hùng của “cách mạng hoa hồng” lại trở thành kẻ tội đồ do chính sách lãnh đạo ngày càng độc đoán”. Năm 2014, Viện Công tố thủ đô Tbilisi quyết định truy tố Saakashvili, vì lúc còn đương chức đã “gian lận, tham nhũng, lạm quyền”, và chính quyền Gruzia quyết định truy nã. Tuy nhiên, một tháng sau khi rời ghế tổng thống, ông ta đã sang Mỹ sinh sống.
Năm 2015, M.Saakashvili trở lại với cương vị “đứng đầu Hội đồng Tư vấn quốc tế về cải cách (IACR – cơ quan tập hợp các chuyên gia nước ngoài có vai trò tư vấn, đề xuất, kiến nghị để thực hiện cải cách kinh tế – chính trị ở Ukraina); sau khi nhập quốc tịch Ukraina, ông ta được trao thẻ công dân đặc biệt, được bổ nhiệm làm Thống đốc vùng Odessa với lời hứa sẽ “đem hết sức cống hiến với khả năng tối đa để cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân tại khu vực trọng yếu này”. Nhưng ngày 7-11 mới đây, M. Saakashvili tuyên bố từ chức vì mệt mỏi trong việc đấu tranh với sự cản trở của giới quan chức Ukraina, cho rằng, chính quyền Ukraina bất lực trong chống tham nhũng, khiến cho nước này bị rơi vào “sự tăm tối bẩn thỉu, vũng bùn tham nhũng”. Và ngày 10-11, Tổng thống Ukraina P.Poroshenko đã tuyên bố miễn nhiệm M. Saakashvili khỏi mọi chức vụ.
Hoạn lộ hơn mười năm qua của M.Saakashvili cho thấy: sau khi thất bại trong việc thừa hưởng kết quả “cách mạng hoa hồng” ở Gruzia, M. Saakashvili đã tới Ucraina với tham vọng tiếp tục sứ mệnh; nhưng trên thực tế, “cách mạng sắc màu” không đưa tới sự ổn định, lại đẩy xã hội vào tình trạng rối ren, khủng hoảng nối tiếp khủng hoảng, với các cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn,…
Các biến cố xã hội không xuất phát từ những giá trị tự thân và được định hướng một cách tỉnh táo, mà bức xúc của quần chúng đã bị thao túng, biến thành phương tiện giúp một số thế lực giành quyền lực chính trị mà không vì phục vụ lợi ích nhân dân, cũng không hướng tới lợi ích của dân tộc, đất nước; thậm chí tạo cớ cho nước ngoài can thiệp. Mỗi khi một cuộc “cách mạng màu” xảy ra, hay khi “mùa xuân Ả Rập” lan tràn tại Trung Đông và Bắc Phi, khẩu hiệu đấu tranh dân chủ, nhân quyền, chống tham nhũng, lạm dụng quyền lực,… lại được nêu cao như là ngọn cờ tập hợp lực lượng. Và thường thì, sau khi một cuộc “cách mạng màu” hạ màn, hoặc “gió mùa xuân” đã thổi qua một quốc gia nào đó thì dân chủ, nhân quyền lại trở nên sa sút, tham nhũng ngày càng lan tràn, và quyền lực lại được sử dụng làm công cụ chủ yếu giúp một số phe phái chính trị thanh toán, triệt hạ lẫn nhau.
Trong bối cảnh đó, việc từ năm 2011 đến nay, khu vực chịu ảnh hưởng của “mùa xuân Ả Rập” không tăng trưởng, tổn thất 614 tỷ USD như báo cáo của ESCWA là tất yếu không thể tránh khỏi. Bởi một sự thật không thể bác bỏ là: không có ổn định xã hội thì không thể phát triển; nếu không lấy lợi ích nhân dân làm cơ sở xác định mục đích, đường hướng cho cách mạng thì các khẩu hiệu mỹ miều mà nó đưa ra rốt cuộc chỉ là “bánh vẽ”.
Từ khi “cách mạng màu”, “mùa xuân Ả Rập” được quảng bá, với sự hỗ trợ từ bên ngoài, một số người ở Việt Nam cũng đã nhen nhóm ý đồ thực hiện “cách mạng màu”. Những phương thức, giọng điệu, động thái, thủ đoạn,… như một số tổ chức ở nước ngoài chuẩn bị tiến hành “cách mạng màu”, “mùa xuân Ả Rập” đã được du nhập, mô phỏng, lặp lại và phóng chiếu với rất nhiều trò vè từ đường phố tới internet.
Song càng dấn sâu vào âm mưu tiến hành “cách mạng màu”, họ càng tự làm lộ rõ bản chất, xu hướng cơ hội chính trị, như một blogger tổng kết, đó là một phong trào “đòi phải minh bạch 100% nhưng mọi nhà hoạt động của phong trào này đều không minh bạch về nguồn tài chính; mọi nhà hoạt động nhiệt huyết đều mất hết kế sinh nhai nếu bị cắt tiền tài trợ; đòi một trật tự xã hội tốt đẹp hơn bằng những cuộc biểu tình xấu hoắc, hàng ngũ lộn xộn, nhân sự ô hợp; nhân danh các lý tưởng tốt đẹp nhưng đều không thể tồn tại nếu không khai thác các cảm xúc xấu xí của con người; nhân danh một thế giới tốt đẹp hơn, nhưng trong nội bộ đều hành xử xấu xí!”.
Blogger Kami – người chưa bao giờ thiện chí với Việt Nam, phải đặt câu hỏi trên RFA rằng: “Đầu óc của những kẻ như thế thử hỏi thì sẽ dẫn dắt được ai và xã hội tương lai sẽ như thế nào, khi giao cho những kẻ cực đoan như thế nắm giữ quyền lực?”. Và thiết nghĩ, câu hỏi này không chỉ vạch trần bản chất vấn đề, mà còn là lời cảnh báo!
Vụ xả súng từ tầng 32 ở Las Vegas hôm 1/10 có điểm tương đồng với vụ xả súng hàng loạt năm 1966, khi tay súng bắn tỉa lạnh lùng bóp cò nhằm vào từng nạn nhân bên dưới.
Cuộc thảm sát ở "đại lộ cờ bạc" Las Vegas Strip hôm 1/10 được coi là vụ xả súng hàng loạt tồi tệ nhất trong lịch sử Mỹ. Tuy nhiên, đây không phải là lần đầu tiên một tay súng đơn độc nã đạn liên tiếp vào đám đông từ trên cao.
Đối với những quan chức chuyên nghiên cứu về các vụ giết người hàng loạt, vụ xả súng điên cuồng ở Las Vegas mới đây khiến họ nhớ tới vụ xả súng hàng loạt đầu tiên thời hiện đại xảy ra vào ngày 1/8/1966.
Một cựu binh sĩ thủy quân lục chiến 25 tuổi đang theo học tại Đại học Texas đã trút mưa đạn từ đài quan sát trên tầng 28 của tháp đồng hồ xuống khuôn viên trường.
Hành động như lính bắn tỉa
Với trang bị gồm 1 súng ngắn, 3 súng trường, 3 súng lục và hơn 700 băng đạn, Charles Whitnam đã sử dụng các kỹ năng bắn tỉa mà y tích lũy được trong quân đội để bắn trúng hơn 40 người, khiến 14 người thiệt mạng. Whitman ra tay giữa ban ngày và di chuyển quanh đài quan sát để nã đạn từ nhiều hướng.
Khác biệt của vụ tấn công năm 1966 so với vụ xả súng của Paddock ở Las Vegas là loại vũ khí được sử dụng và mục tiêu của sát thủ. Whitman lập kế hoạch và hành động như một tay lính bắn tỉa thực thụ. Y chủ yếu bóp cò khẩu súng bắn tỉa lên đạn từng viên và lần lượt nhắm vào một số nạn nhân cụ thể.
Khi đó, khái niệm về một vụ xả súng hàng loạt vẫn còn là điều xa lạ. Cảnh sát đã mất hơn 90 phút để đột nhập vào tháp đồng hồ qua hệ thống cống ngầm và tiêu diệt Whitman. Trong thời gian này, dân thường và các cảnh sát bên dưới đã bắn trả và góp phần cản trở vụ tấn công của Whitman.
Trong vụ xả súng ở Las Vegas hôm 1/10, Paddock dường như đã bắn liên tiếp vào đám đông nhờ súng máy hoặc súng bán tự động được hoán cải. Do đó, số người trúng đạn nhiều hơn gấp 10 lần so với vụ tấn công của Whitman. Chỉ trong vài phút, số người chết cũng cao hơn 5 lần.
Năm 1966, rất ít vũ khí sát thương trên thị trường có thể được cải tiến thành vũ khí tự động và cũng ít người biết cách thực hiện điều này. Ngày nay, các chỉ dẫn hoán cải vũ khí cùng những bộ dụng cụ hỗ trợ chỉ tốn vài trăm USD đầy rẫy trên Internet.
"Năm 1966 chưa có nhiều súng AK-47 như hiện nay, chỉ có một số ít súng AR-15 có thể được hoán cải vì lúc đó loại vũ khí này vẫn còn mới", Bill Buford, cựu cục trưởng Cục Quản lý Rượu, Thuốc lá và Súng đạn ở Arkansas, nói với Guardian.
"Bây giờ việc chuyển đổi súng bán tự động thành tự động khá đơn giản nếu có dụng cụ thích hợp", ông cho biết.
Mối đe dọa từ các tay súng máu lạnh
Buford nhấn mạnh rằng khác biệt giữa Whitman và Paddock còn nằm ở mức độ chuẩn bị và quy mô vụ giết người mà các tay súng dự liệu.
Whitman đã sở hữu một khẩu súng trường và mua thêm các vũ khí khác trong 24 giờ trước vụ tấn công. Trong khi đó, các vũ khí mà Paddock sở hữu và việc làm thế nào y có được chúng vẫn chưa được xác định.
Động cơ chính xác của Whitman chưa bao giờ hoàn toàn rõ ràng. Đêm trước khi ra tay, y đã giết chết cả mẹ và người vợ sắp ly dị đồng thời để lại lời nhắn rằng y không muốn họ xấu hổ vì việc làm tiếp theo của mình.
Trên đường tới tháp đồng hồ, y đã giết thêm 3 người nữa, khiến tổng số người chết lên tới 17. Một giả thuyết được đặt ra là Whitman có thể đã bị loạn trí do u não.
Điều chắc chắn là hành động giết người của y đã gây ra mối đe dọa an ninh công cộng mới ngày càng gia tăng sau nhiều năm. Theo một nghiên cứu về các vụ giết người hàng loạt ở Mỹ, trước vụ tấn công của Whitman, có khoảng 25 vụ xả súng trong 50 năm. Nửa thế kỷ trôi qua từ năm 1966, đã có 150 vụ việc khác xảy ra.
Vụ xả súng ở Texas cũng buộc lực lượng hành pháp trên khắp nước Mỹ nghiên cứu cách phản ứng với các vụ việc tương tự. Trong hơn 30 năm, phương án thường được sử dụng là cầm chân tay súng, như trong trường hợp của Whitman, để đợi tới khi cảnh sát tìm ra cách tiếp cận và khống chế hung thủ một cách an toàn nhất.
Cách tiếp cận này đã lộ điểm yếu sau vụ xả súng trong trường học ở Colorado năm 1990. Khi cảnh sát chuẩn bị đột nhập trường học, những kẻ giết người đã tự kết liễu và một trong số các nạn nhân đã bị mất máu đến chết. Nếu cảnh sát can thiệp nhanh hơn thì người này có thể đã được cứu sống.
Hiện tại, cách thức để đối phó với các tay súng là giải quyết càng sớm càng tốt. Sau khi nhận được tin báo, cảnh sát đột nhập vào căn phòng của Paddock trên tầng 32 của khu nghỉ dưỡng và casino Madalay Bay nhưng y đã tự sát.
Hôm 25/9, tờ Los Angeles Times (Latimes) đã đăng tải một bài bình luận cho rằng Mark Zuckerberg đã xây dựng Facebook thành “một con vật kếch xù” mà không biết sức mạnh của nó đã vượt tầm kiểm soát.
Theo Latimes, khi nói đến kinh doanh, không thể phủ nhận người đồng sáng lập kiêm tổng giám đốc Facebook Mark Zuckerberg là một người nhìn xa trông rộng. Tuy nhiên, những khả năng xuất chúng của Mark Zuckerberg đã bị lung lay khi những vấn đề xã hội và văn hóa ở thế giới thực rò rỉ vào Facebook.
Sau khi có những tranh luận về việc những tin tức giả mạo trên Facebook đã gây ảnh hưởng đến cuộc bầu cử năm 2016, nhiều người cho rằng ông Zuckerberg dường như chưa nhận ra được sức mạnh thực sự của Facebook.
Hôm 24/9, tờ Washington Post đưa tin, ông Barack Obama khi còn là Tổng thống Mỹ đã từng cảnh báo Zuckerberg về những tác động mà Facebook có thể gây ra khi để lan truyền những thông tin sai lệch trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ 2016. Đáp lại, Zuckerberg nói với ông Obama rằng tin tức giả mạo không có nhiều trên Facebook.
Ông Zuckerberg cũng từng khẳng định, ý tưởng Facebook và các thông tin giả mạo ảnh hưởng đến cuộc bầu cử Mỹ 2016 là điên rồ.
Không chỉ vậy, mới đây thôi, Facebook đã mất cảnh giác khi để một số người đăng quảng cáo có ý bài xích người Do Thái. Những người điều hành Facebook đã không hay biết về vụ việc cho tới khi một tờ báo phát hiện ra.
Jennifer Stromer-Galley, giáo sư nghiên cứu thông tin tại Đại học Syracuse cho hay: “Họ rất giỏi trong kinh doanh, nhưng thực sự tồi tệ khi không nhận ra được ảnh hưởng của Facebook đối với xã hội. Có thể hiểu rằng công ty này đã quá lớn và phức tạp nên có những nơi không được chú ý đến”.
Theo Latimes, cho đến nay, Facebook đang phải chạy theo để “chữa cháy” mỗi khi có vấn đề gì đó phát sinh nhằm giảm bớt sự chỉ trích hay các cuộc tranh luận về vai trò của Facebook trong xã hội.
Các chuyên gia cho rằng nhiều công ty công nghệ Mỹ đang quen với việc gây lỗi trước rồi xin lỗi sau với lý do họ đang sở hữu công nghệ phức tạp và mô hình kinh doanh mới mẻ.
Bà Valerie Alexandra, một giáo sư kinh tế tại bang San Diego cho hay: “Một trong những cách giải thích phổ biến nhất mà chúng ta nghe được từ ngành công nghệ cao là họ đang kinh doanh một ngành mới hay đang điều hành một công nghệ hiện đại phức tạp nên rất khó kiểm soát”.
Bà nói thêm: “Nhiều người cho rằng vì internet và các nền tảng truyền thông xã hội đang ở giai đoạn tương đối mới và đang phát triển nên vẫn còn rất nhiều khu vực màu xám, nơi những thứ hợp pháp và bất hợp pháp, đạo đức và phi đạo đức vẫn còn bị lẫn vào nhau”.
Trước những vấn đề phát sinh, mhiều người đang kêu gọi coi Facebook là một công ty truyền thông chứ không phải là một mạng xã hội nhằm buộc Facebook phải thực hiện các tránh nhiệm pháp lý đối với những nội dung xuất hiện trên mạng xã hội này. Một số nghị sĩ còn đang cân nhắc cho ra đời một dự luật đòi hỏi Facebook phải minh bạch hơn đối với các quảng cáo mang tính chính trị.
Sarah T. Roberts, giáo sư nghiên cứu thông tin tại Đại học California, Los Angeles cho hay: “Các công ty công nghệ không thiếu tầm nhìn, không thiếu sự sáng tạo để tạo ra doanh thu. Nhưng tầm nhìn của họ sẽ bị cản trở khi có sự can thiệp từ bên ngoài hay những hành vi sử dụng bất chính khác”.
Theo ông, Zuckerberg cần phải thuê thêm các nhà khoa học xã hội chứ không phải là các kỹ sư nếu muốn tránh những tranh cãi tương tự trong tương lai.