KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, THỜI ĐẠI CỦA CHIẾN THẮNG 30 THÁNG 4

Năm nay, trong những ngày hướng đến kỷ niệm Chiến thắng lịch sử vĩ đại 30/4/1975, nhân dân ta đón mừng sự kiện này với nhiều niềm vui mới. Theo báo cáo của Chính phủ, kinh tế Việt Nam năm 2018 khởi sắc trên cả ba khu vực sản xuất, cung - cầu của nền kinh tế cùng song hành phát triển.

NHẬN DIỆN VÀ NGĂN NGỪA THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG LÒNG YÊU NƯỚC ĐỂ KÍCH ĐỘNG NGƯỜI DÂN XUỐNG ĐƯỜNG BIỂU TÌNH, GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Người yêu nước chân chính là người biết sử dụng pháp luật, đạo đức, truyền thống tốt đẹp để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, đồng thời phải biết tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Nhận diện được phương thức, thủ đoạn lợi dụng lòng yêu nước để kích động nhân dân làm việc xấu chính là nhằm đưa ra các biện pháp xử lý phù hợp, đồng thời tránh được sự lợi dụng đó để gây ra rối loạn xã hội, phức tạp tình hình.

Thông cáo báo chí kỳ họp 32 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Từ ngày 03 đến 06/12/2018 tại Hà Nội, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã họp kỳ 32. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương chủ trì kỳ họp.

UBKTTW kết luận vụ AVG: Sai phạm của ông Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn là rất nghiêm trọng

UBKTTW vừa họp kỳ 26 kết luận vụ AVG có những vi phạm của Ban cán sự đảng Bộ TT-TT, ông Nguyễn Bắc Son, ông Trương Minh Tuấn, ông Phạm Đình Trọng, của Ban Thường vụ Đảng ủy Mobifone và các ông Lê Nam Trà, Cao Duy Hải là rất nghiêm trọng.

Bốn kỳ vọng thay đổi lớn về công tác cán bộ sau 4 ngày Hội nghị T.Ư 7

Sau 4 ngày làm việc, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng được dư luận đặc biệt quan tâm, trong đó có công tác cán bộ, bởi đây là vấn đề “nóng” trong tình hình hiện nay.

Thứ Tư, 18 tháng 4, 2018

GIỮ VỮNG BẢN LĨNH NIỀM TIN


Những ngày gần đây, việc Đảng, Nhà nước ta kiên quyết đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xử lý theo kỷ luật và pháp luật một số cán bộ sai phạm, trong đó có cả những cán bộ lãnh đạo cấp cao được dư luận xã hội đồng tình. Tuy nhiên, cũng xuất hiện những băn khoăn, lo lắng và cả những quan điểm kích động, xuyên tạc, cho rằng, phải chăng những sai phạm đã trở thành “lỗi hệ thống” và đến mức trầm kha, thậm chí bi quan, suy giảm niềm tin. Trước hiện tượng này, chúng ta cần phải có cái nhìn bình tĩnh với bản lĩnh và niềm tin cách mạng đúng đắn...


Còn đó bài học “chặt cành để cứu cây”

Trước hết, chúng ta cần khẳng định rằng, kỷ luật của Đảng ta là tự giác, nghiêm minh và đặc trưng của pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) là mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Việc xử lý những cán bộ vi phạm như trên không có gì là bất thường, đột biến từ trước tới nay nếu xét về nguyên tắc kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đã từ lâu, trong xã hội ta, có công thì thưởng, có tội thì phạt. Và khi mà công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng được đẩy mạnh thì những nguyên tắc ấy càng được thực hiện nghiêm túc, thường xuyên. Đó là việc làm bình thường để xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh; thật sự là người lãnh đạo thật trung thành, người đầy tớ của nhân dân. Đó là đòi hỏi tất yếu để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, “muôn điều phải có thần linh pháp quyền” như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng tâm niệm và căn dặn từ những năm đầu thế kỷ trước.

GIỮ VỮNG BẢN LĨNH NIỀM TIN

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng căn dặn: “... một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chân chính”. Soi rọi thực tiễn vào những lời căn dặn của Người, chúng ta càng thêm tin tưởng những việc làm gần đây của Đảng, Nhà nước ta chính là theo tinh thần một Đảng “có gan thừa nhận khuyết điểm và sửa chữa khuyết điểm”.

Việc xử lý một số cán bộ cấp cao gần đây cũng không phải có gì “ghê gớm”, chưa có tiền lệ mà trong lịch sử, Đảng ta cũng đã nhiều lần xử lý với tinh thần “tiến bộ, mạnh dạn, chân chính”. Không chỉ lấy đức trị để giáo dục, răn đe, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chú trọng xây dựng pháp luật để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và khi có luật rồi thì phải thi hành thật nghiêm. Một tháng sau ngày lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho UBND các kỳ, tỉnh, huyện và làng, nêu rõ 6 căn bệnh cần đề phòng là: Trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Tháng 11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ và năm 1946, Người ký Quốc lệnh khép tội tham ô, trộm cắp của công vào tội tử hình. Trong trả lời chất vấn của Quốc hội vào năm 1946, Người nói: “Chính phủ hết sức làm gương, nếu làm gương không xong thì sẽ dùng pháp luật mà trị những kẻ hối lộ, đã trừng trị, đang trừng trị và sẽ trừng trị cho kỳ hết”.

Nói đi đôi với làm, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng y án tử hình Đại tá quân nhu Trần Dụ Châu vì tội tham ô, lợi dụng xương máu của anh em chiến sĩ để lo việc cá nhân. Đến năm 1964, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp Trương Việt Hùng vì có bồ bịch mà đầu độc vợ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định y án tử hình. Nói về sự việc đau xót này, Người đã để lại lời căn dặn đầy thấm thía: “Thà chặt một cành sâu cho cây xanh tốt”.

Đau xót nhưng đồng thuận, tin tưởng

Nhìn lại những vụ việc xử lý cán bộ, công chức vi phạm gần đây, tuy số vụ việc bị xử lý có gia tăng, tính chất mức độ một số vụ vi phạm có nghiêm trọng hơn, cán bộ bị xử lý có những trường hợp ở cương vị lãnh đạo, chỉ huy cao cấp... nhưng bên cạnh sự đau xót, nuối tiếc, dư luận đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân và cả bạn bè quốc tế đều rất đồng tình, tin tưởng vào quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước ta.

GIỮ VỮNG BẢN LĨNH NIỀM TIN

Không phải ngẫu nhiên mà có những cán bộ lão thành cách mạng, giáo sư, nhà nghiên cứu khi trả lời phỏng vấn báo chí đã đặt câu hỏi: “Việc nhiều cán bộ cao cấp bị xử lý hình sự là đáng lo hay đáng mừng?”. Câu trả lời đều có một điểm chung: Không ai có thể vui mừng trước việc đồng chí, đồng đội của mình, nhất là những đồng chí đã trưởng thành, phát triển lên cương vị cấp cao bị vi phạm, “nhúng chàm” và “ngã ngựa”. Đó là nỗi đau xót, là những bài học đắt giá. Nhưng cũng không vì thế mà bi quan, tuyệt vọng, đến mức cho rằng: “Đảng ta như thế là hỏng rồi”, “sai phạm nhiều thế thì bộ máy này đâu còn trong sạch”(?). Ngược lại, nhìn vào những việc làm kiên quyết của Đảng, Nhà nước ta, chúng ta càng thêm tin tưởng công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày càng thành công, bộ máy Nhà nước ngày càng trong sạch.

Là một nhà nghiên cứu lý luận chuyên sâu về tấm gương đạo đức của Bác Hồ, GS Hoàng Chí Bảo cho rằng: Khi nói đến vấn đề chống tham ô, tham nhũng, Người đã nói, phải thẳng tay trừng trị tất cả những kẻ bất liêm, bất kể là ai. Chính điều đó là điều hợp với lòng dân nhất. Bởi dân chỉ muốn Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo cầm quyền để dân đi theo, dân noi theo và dân thực hiện sự nghiệp đổi mới này đến đích thành công. Những sự việc vừa qua tuy nhức nhối, đau đớn nhưng chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và không lảng tránh sự thật. Trong đó có sự thật nhìn thẳng vào chính đội ngũ cán bộ, mà cán bộ đã mắc vi phạm khuyết điểm thì phải kỷ luật. Chính điều đó làm cho Đảng trong sạch vững mạnh, làm cho sức chiến đấu của Đảng được mạnh hơn”.

Niềm tin cách mạng

Sự quyết liệt đấu tranh, không có ngoại lệ, không có vùng cấm đối với những trường hợp vi phạm như thời gian vừa qua, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư đã giúp cho công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ngày càng hiệu quả. Ý Đảng, lòng dân, vận nước hài hòa. Có thể thấy rất rõ xung quanh những sự việc ấy, tuy vẫn có không ít âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, kích động, chia rẽ, nhưng không thể làm nguội tắt ngọn lửa phòng, chống tham nhũng, không thể làm suy giảm niềm tin cách mạng chân chính.

Những ngày gần đây, lợi dụng thông tin về các trường hợp cán bộ cao cấp, trong đó có cả một số tướng lĩnh, sĩ quan công an bị khởi tố, kẻ xấu đã kích động gây hoang mang, suy giảm niềm tin vào quân đội, công an với luận điệu “những thanh bảo kiếm và lá chắn bảo vệ chế độ đã bị vấy bẩn, suy yếu”. Nhưng với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, chúng ta luôn kiên định niềm tin, không lẫn lộn giữa hiện tượng và bản chất. Tuy có một số cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao bị xử lý hình sự nhưng một rừng cây được chặt một vài cành sâu bệnh thì rừng cây ấy thêm xanh tốt. Lực lượng vũ trang nhân dân vẫn là lực lượng tuyệt đối trung thành, vững mạnh và tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Tinh thần quyết liệt xử lý cán bộ vi phạm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, kể cả cán bộ đó là Ủy viên Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị hay tướng lĩnh cao cấp cho thấy Đảng ta đã và đang bước vào một thời kỳ xây dựng, chỉnh đốn Đảng mạnh mẽ, nghiêm túc và toàn diện nhất trước đòi hỏi ngày càng nặng nề của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều đó bắt nguồn từ ý chí của Đảng, bắt nguồn từ lòng dân và cũng bắt nguồn từ mệnh lệnh của cuộc sống, đòi hỏi của sự phát triển và hội nhập. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng phát biểu: “Chúng ta rất nhân văn, nhân đạo, nhân ái, nhân tình; không thích thú gì khi phải kỷ luật đồng chí, đồng đội của mình; trái lại, rất khổ tâm, đau xót. Nhưng vì sự tiến bộ chung, vì để mong nhiều người không mắc sai phạm, chúng ta phải kỷ luật; kỷ luật một vài người để cứu muôn người!”. Với niềm tin cách mạng, nhìn vào công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hiện nay, chúng ta thắp lên sự hy vọng và đồng thuận để đấu tranh, đẩy lùi những thói hư tật xấu, giúp Đảng ta ngày càng vững mạnh, Nhà nước ta ngày càng trong sạch, để đất nước ngày càng tiến bộ và phát triển.

Thứ Ba, 17 tháng 4, 2018

BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC - GỐC RỄ LÀ BẢO VỆ BẢN SẮC VĂN HÓA (tiếp theo)


Bài 2: Sức mạnh độc lập dân tộc bắt nguồn từ sức mạnh văn hóa

Trong thời điểm cả nước đang dồn mọi sức lực, huy động mọi giai cấp, tầng lớp nhân dân tham gia chống quân phát xít Nhật và thực dân Pháp để sớm giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, Đảng ta đã ra “Đề cương văn hóa 1943”.

BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC - GỐC RỄ LÀ BẢO VỆ BẢN SẮC VĂN HÓA

Ra đời trong tình thế lịch sử “nước sôi lửa bỏng” ấy, đề cương chuyển tải thông điệp sâu sắc đến hôm nay và mai sau: Một mặt, vận mệnh văn hóa dân tộc phải luôn gắn liền với vận mệnh dân tộc; mặt khác, muốn dân tộc thoát khỏi nô lệ lầm than, không thể không khơi nguồn từ sức mạnh văn hóa ngàn đời của dân tộc. 

Văn hóa dân tộc thức tỉnh tinh thần yêu nước, khơi nguồn ý thức tự cường cho nhân dân

Cách nay 75 năm, dân tộc ta, nhân dân ta bị kìm kẹp “một cổ hai tròng” bởi chế độ thực dân phát xít và phong kiến. Văn hóa Việt Nam cũng bị “vòng cương tỏa” bởi những chính sách ngu dân, phản động của kẻ thù. Không ít người Việt, trong đó có cả bộ phận trí thức bị “nhồi sọ” những luồng văn hóa xấu độc, ngoại lai. Do vậy, để ngăn ngừa xu hướng, tình trạng nguy hại này, Đảng ta đã ban hành "Đề cương văn hóa 1943". Một trong những mục tiêu bao trùm của đề cương này là muốn cứu được dân tộc thì phải cứu được văn hóa dân tộc, muốn giành được độc lập, tự do cho dân tộc thì nhất thiết phải dựa vào sức mạnh văn hóa dân tộc, phải khơi dậy được lòng tự tôn, tự hào dân tộc trong các tầng lớp nhân dân, trước hết là đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ - những người được coi là một trong những bộ phận tinh hoa của dân tộc.

Điều đáng chú ý trong ba nguyên tắc vận động của văn hóa Việt Nam được Đảng ta nêu ra tại đề cương là yếu tố “dân tộc hóa” được đặt ở vị trí đầu tiên, tức là chống ảnh hưởng văn hóa nô dịch và thuộc địa, bảo đảm cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập. Trong tình thế khốn cùng của các tầng lớp nhân dân vào đầu những năm 1940 của thế kỷ 20, phần lớn trí thức, văn nghệ sĩ cũng bị dồn vào thế chân tường. Do đó, sự xuất hiện đúng lúc, kịp thời của "Đề cương văn hóa 1943" với việc khơi dậy mạnh mẽ ý thức dân tộc giúp nhiều trí thức, văn nghệ sĩ đang đứng trước “ngã ba đường” như được thức tỉnh suy nghĩ để cùng hướng về ngọn cờ tiên phong văn hóa của Đảng, tự nguyện đi theo Đảng và tham gia sự nghiệp cách mạng cứu nước, cứu dân.

BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC - GỐC RỄ LÀ BẢO VỆ BẢN SẮC VĂN HÓA
Ảnh minh họa: TTXVN.
Theo nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam: Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, một bộ phận trí thức, văn nghệ sĩ nước ta ít nhiều đều cảm thấy bế tắc trong cuộc sống và trong sáng tạo của mình. Tư duy và ngòi bút của họ trở nên hoen gỉ, cuộc sống trở nên tù túng. Nhưng từ khi gặp ánh sáng của đề cương văn hóa soi đường, nhiều trí thức, văn nghệ sĩ thời đó đã bị lôi cuốn bởi sức mạnh của trí tuệ, của khát vọng cao cả của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với văn hóa và vận mệnh văn hóa dân tộc. Từ đó, họ từng bước rũ bỏ “cái tôi” cá nhân để tự giác hòa vào “cái ta” cộng đồng, tự nguyện hòa vào cuộc sống chiến đấu sôi động của các tầng lớp nhân dân.

Như vậy, với tư cách là một trong những thành tố của độc lập dân tộc, văn hóa dân tộc không chỉ có ý nghĩa làm nền tảng, bệ đỡ tinh thần cho con người, mà nó còn góp phần khai sáng trí tuệ, thức tỉnh lương tâm, khơi dậy ý thức tự lực, tự cường dân tộc cho những thân phận nô lệ, giúp họ vùng lên đấu tranh phá vỡ xiềng xích của văn hóa phát xít thực dân, quyết tâm bảo vệ văn hóa truyền thống dân tộc và xây dựng nền văn hóa mới của Việt Nam. Các nhà nghiên cứu văn hóa đã khẳng định: Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có một phần mở đường, khai sáng từ đề cương văn hóa của Đảng hai năm trước đó.

“Sức mạnh văn hóa của một nước không thể đo bằng cây số vuông”

Ít có dân tộc nào trên thế giới có bề dày lịch sử đấu tranh giữ nước lâu dài, bền bỉ như dân tộc Việt Nam. Cũng hiếm có dân tộc nào trên thế giới lại phải đứng lên trực tiếp đương đầu với kẻ thù mạnh hơn gấp bội lần cả về quân sự, vũ khí và tiềm lực kinh tế như dân tộc Việt Nam. Đế quốc Nguyên - Mông ở thế kỷ 13 là đế quốc hùng mạnh nhất thời phong kiến cổ trung đại, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trong thế kỷ 19, 20 là những cường quốc về quân sự thời cận hiện đại đều đã đặt ách thống trị ở Việt Nam. Nhưng tại sao những thế lực ngoại bang xâm lược hung bạo nhất thế giới và từng “đánh đông dẹp bắc” trước sau đều phải chuốc lấy thất bại thảm hại ở Việt Nam và rút quân về nước? Một trong những nguyên nhân căn bản nhất là do kẻ thù không nhận định, đánh giá đúng về cội nguồn, truyền thống, sức mạnh văn hóa của dân tộc Việt Nam.

Dành hàng chục năm tâm huyết chỉ để nghiên cứu văn hóa lịch sử quân sự Việt Nam, nhà nghiên cứu văn hóa quân sự Dương Xuân Đống đã khẳng định: Văn hóa quân sự Việt Nam thực chất là văn hóa giữ nước. Cái mầm mống yêu nước, quyết tâm đánh giặc chống ngoại xâm đã hình thành từ trong bào thai người mẹ sinh ra Thánh Gióng để truyền lại cho hậu thế một câu chuyện huyền thoại về lịch sử đấu tranh giữ nước quật cường của dân tộc ta ngay từ buổi bình minh dựng nước. Để rồi sau 22 thế kỷ, trải qua bao can qua lửa đạn, khói bom có thể làm cho cửa mất nhà tan, xóm làng xơ xác, nhưng sức mạnh văn hóa quân sự Việt Nam không ngừng được vun trồng, bồi đắp và kết tinh, tỏa sáng mạnh mẽ chưa từng thấy trong thế kỷ 20: Lần đầu tiên quân đội một nước nhỏ bé ở Đông Nam Á đã “chôn vùi” chủ nghĩa thực dân Pháp tại chiến trường Điện Biên với đại thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” ngày 07/5/1954; và đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nhất, dài ngày nhất của đế quốc Mỹ và bọn tay sai kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, với đỉnh cao thắng lợi huy hoàng ngày 30/4/1975! 

Trong cuộc trò chuyện với Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày 09/11/1995 tại Hà Nội, chính cựu Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Robert McNamara đã thẳng thắn thừa nhận: cuộc chiến tranh của Mỹ thua tại Việt Nam là thua về văn hóa. Bởi văn hóa Việt Nam, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng đối đáp với ông Robert McNamara rằng, dân tộc Việt Nam là một dân tộc mà ý thức và quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc đã trở thành một triết lý, một bản sắc văn hóa và cũng là một nguyên tắc không lay chuyển của người Việt Nam.

Vào thời điểm giữa năm 1954, sau khi đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm dự báo Việt Nam tiếp tục phải đương đầu với sự can thiệp của đế quốc Mỹ vào miền Nam nước ta. Bởi vậy, trong buổi nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn Quân Tiên Phong (nay là Sư đoàn 308, Quân đoàn 1) tại Khu di tích lịch sử Đền Hùng ngày 19/9/1954, Bác Hồ đã căn dặn: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Là một trong những nhân chứng trực tiếp tham dự và được nghe lời căn dặn của Bác Hồ tại sự kiện lịch sử ấy, Thiếu tướng, nhà văn Hồ Phương (năm 1954 là Chính trị viên Đại đội Phòng không, Đại đoàn Quân Tiên Phong) cho rằng, lời căn dặn của Bác thấm đẫm “hồn thiêng sông núi” và hàm chứa ý nghĩa thiêng liêng sâu sắc. Bởi nhắc đến Vua Hùng đâu chỉ nhắc đến những vị quốc công đã sinh ra quốc gia dân tộc đầu tiên của người Việt, mà còn khơi gợi trong trái tim, khối óc mỗi người Việt Nam về tình yêu xứ sở cội nguồn, về lịch sử truyền thống lâu đời của tổ tiên ta đã dày công tạo dựng, bồi đắp nên. Do vậy, lời Bác dạy cũng là điều nhắc nhở đồng bào, chiến sĩ cả nước phải luôn có ý thức bảo toàn non sông gấm vóc, giữ gìn nòi giống và bảo vệ những giá trị văn hóa mà tổ tiên để lại. Nhìn rộng ra, đó là ý thức bảo vệ độc lập chủ quyền cả về lãnh thổ và văn hóa dân tộc.

Không chỉ các bậc tiền nhân xuất chúng như Nguyễn Trãi, Quang Trung - Nguyễn Huệ nhận ra sức mạnh tiềm tàng của văn hóa dân tộc, quyết tâm giữ gìn bằng được những giá trị văn hóa truyền thống, mà các bậc danh nhân lỗi lạc sau này như Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đảng Cộng sản Việt Nam đã tìm thấy sức mạnh thực sự của văn hóa dân tộc, từ đó biến sức mạnh ấy thành sức mạnh “dời non lấp biển” để đánh tan, nhấn chìm mọi kẻ thù ngoại bang xâm lược, giữ gìn toàn vẹn bờ cõi giang sơn và chủ quyền văn hóa thiêng liêng của dân tộc.

“Danh dự, sức mạnh độc lập, tự do, sức mạnh văn hóa của một nước không thể đo bằng cây số vuông”. Điều nhấn mạnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi trò chuyện với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara trong cuộc gặp ngày 23/6/1997 tại Hà Nội thêm một lần khẳng định sức mạnh của một dân tộc không hẳn xuất phát từ diện tích lãnh thổ, tiềm lực kinh tế, tiềm lực quân sự, mà phải bắt nguồn từ chiều dài lịch sử, chiều sâu văn hóa và bề dày truyền thống của dân tộc đó.

Với Việt Nam, sức mạnh văn hóa làm nên sức mạnh độc lập dân tộc là một chân lý khách quan đã được lịch sử kiểm chứng, xác nhận!

Bài 1: BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC - GỐC RỄ LÀ BẢO VỆ BẢN SẮC VĂN HÓA

(còn nữa)

Kỷ luật ông Lê Trương Hải Hiếu vì có con nhưng chậm báo cáo


Ủy ban Kiểm tra Thành ủy TP.HCM quyết định kỷ luật ông Lê Trương Hải Hiếu, Chủ tịch UBND quận 12, TP.HCM hình thức khiển trách.

Ngày 17/4, Ủy ban Kiểm tra Thành ủy TP.HCM đã ra thông báo về kết quả xem xét kỷ luật đối với ông Lê Trương Hải Hiếu, Thành ủy viên, Chủ tịch UBND quận 12. 

Thông báo cho hay tại Hội nghị Thành ủy ngày 17/4, Ban Thường vụ Thành ủy đã báo cáo Ban chấp hành Đảng bộ TP.HCM về kết quả xử lý kỷ luật đối với ông Lê Trương Hải Hiếu, Phó Bí thư quận ủy, Chủ tịch UBND quận 12.

Theo đó, ông Lê Trương Hải Hiếu, Thành ủy viên, Phó Bí thư quận ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 12 đã vi phạm trong việc có quan hệ tình cảm với một phụ nữ và có con chung nhưng chậm báo cáo với tổ chức.

Xét tính chất, mức độ, nguyên nhân vi phạm, trách nhiệm đảng viên và thái độ khắc phục, sửa chữa sai phạm của đảng viên, Ban Thường vụ Quận ủy quận 12 quyết định kỷ luật ông Lê Trương Hải Hiếu bằng hình thức khiển trách.


Kỷ luật ông Lê Trương Hải Hiếu vì có con nhưng chậm báo cáo
Ông Lê Trương Hải Hiếu, chủ tịch UBND quận 12.
 
Ông Lê Trương Hải Hiếu (37 tuổi), là con trai ông Lê Thanh Hải, nguyên Bí thư Thành ủy TP.HCM. Ông Hiếu hiện chưa kết hôn. Tháng 8/2015, ông Hiếu trở thành lãnh đạo quận trẻ nhất của TP.HCM khi mới 34 tuổi khi được điều động giữ chức vụ Chủ tịch UBND kiêm Phó Bí thư Quận ủy Quận 12.

Ông Hiếu từng giữ các chức vụ Bí thư Quận đoàn 1, Phó Bí thư Đảng ủy phường Bến Thành (quận 1), Phó Bí thư Thường trực Quận ủy quận 1, Phó Chủ tịch UBND quận 1, Chủ tịch UBND quận 12.

Bắt nguyên Phó Tổng cục trưởng Bộ Công an và hàng loạt cán bộ liên quan Vũ "Nhôm"



Ngày 17/4, Bộ Công an phát đi thông báo về việc cơ quan An ninh điều tra đã ra quyết định khởi tố bị can và lệnh bắt tạm giam hàng loạt cựu lãnh đạo TP Đà Nẵng liên quan đến vụ án “Cố ý làm lộ bí mật nhà nước”, “Trốn thuế”, “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” của Phan Văn Anh Vũ (tức Vũ “nhôm”), trong đó có ông Phan Hữu Tuấn - nguyên Phó Tổng cục trưởng (Bộ Công an).

Bắt nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Tình báo và hàng loạt cán bộ liên quan Vũ "Nhôm"
Hàng loạt cựu lãnh đạo TP Đà Nẵng và nguyên Phó Tổng cục trưởng - Bộ Công an bị bắt giữ liên quan đến Vũ "nhôm".
Theo đó, cơ quan điều tra đã ra quyết định khởi tố, bắt tạm giam bị can Phan Hữu Tuấn (sinh năm 1955, trú tại quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội), nguyên Phó Tổng cục trưởng , Bộ Công an đã nghỉ hưu, về hành vi “Cố ý làm lộ bí mật nhà nước” quy định tại Điều 337 - Bộ luật Hình sự năm 2015.

Cùng khởi tố bắt tạm giam về tội danh trên còn có ông Nguyễn Hữu Bách, cán bộ Bộ Công an (sinh năm 1963, trú tại quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội).

Khởi tố bị can và lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Trần Văn Minh (sinh năm 1955, trú tại quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng), nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2006 - 2011) về các hành vi “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí” quy định Điều 219 - Bộ luật Hình sự năm 2015 và “Vi phạm các quy định của nhà nước về quản lý đất đai” quy định tại Điều 229 - Bộ luật Hình sự năm 2015.

Ra quyết định khởi tố bị can và áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Văn Hữu Chiến (sinh năm 1954, trú tại quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng), nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2011 - 2014) về các hành vi “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí” quy định Điều 219 - Bộ luật Hình sự năm 2015 và “Vi phạm các quy định của nhà nước về quản lý đất đai” quy định tại Điều 229 - Bộ luật Hình sự năm 2015.

Ra quyết định khởi tố bị can và áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Nguyễn Điểu, sinh năm 1958, trú tại quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, nguyên Giám đốc Sở Tài nguyên môi trường thành phố Đà Nẵng về hành vi “Vi phạm các quy định của nhà nước về quản lý đất đai” quy định tại Điều 229 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Ra quyết định khởi tố bị can và áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Trần Văn Toán (sinh năm 1957, trú tại quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng), nguyên Phó Giám đốc Sở Tài nguyên môi trường thành phố Đà Nẵng về hành vi “Vi phạm các quy định của nhà nước về quản lý đất đai” quy định tại Điều 229 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Ra quyết định khởi tố bị can và áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Lê Cảnh Dương (sinh năm 1975, trú tại quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng), Giám đốc Ban xúc tiến và hỗ trợ đầu tư thành phố Đà Nẵng về hành vi “Vi phạm các quy định của nhà nước về quản lý đất đai” quy định tại Điều 229 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Các quyết định và lệnh trên đã được Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp phê chuẩn.

Trước đó cùng ngày, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký quyết định tước danh hiệu Công an nhân dân đối với Phan Hữu Tuấn; Bộ trưởng Bộ Công an đã ký quyết định tước danh hiệu Công an nhân dân đối với Nguyễn Hữu Bách.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an tiếp tục điều tra, mở rộng vụ án làm rõ trách nhiệm của các đối tượng có liên quan, xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

Trước đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã và đang điều tra các vụ án “Cố ý làm lộ bí mật nhà nước” và “Trốn thuế”, xảy ra tại TP Đà Nẵng và một số địa phương, liên quan đến bị can Phan Văn Anh Vũ, tức Vũ “nhôm".

Tà đạo kinh hoàng như thôi miên từ Hải Phòng đang vươn vòi Bạch Tuộc khắp nơi


Nhóm tà đạo 'Hội Thánh Đức Chúa Trời' không chỉ ở Hải Phòng mà còn lan sang nhiều tỉnh thành khác trên khắp cả nước khiến bao gia đình rơi vào cảnh ly tán.

Từ cuối năm 2017 đến nay, cơ quan chức năng ở Hải Phòng liên tục nhận được đơn thư, nguồn tin phản ánh và cầu cứu của người dân về hoạt động phi pháp của một số kẻ cầm đầu tổ chức gọi là “Hội Thánh Đức Chúa Trời” hay còn gọi là “Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ”.

Những kẻ cầm đầu đang lôi kéo, dụ dỗ những người nhẹ dạ cả tin, nhất là nữ sinh viên và phụ nữ trẻ có chồng, khiến bao gia đình rơi vào cảnh vợ chồng, cha con, mẹ con ly tán, học hành dang dở, tinh thần, thể xác suy sụp, tiền mất tật mang, cuộc sống bị đảo lộn, gây bức xúc trong nhân dân.

Những ai đã lỡ bị bỏ ‘bùa mê thuốc lú’ của những kẻ cầm đầu đều đang trong tình trạng mê muội, mất lý trí, về nhà đập bỏ bát hương, bàn thờ, không ăn đồ thờ cúng, bỏ cha mẹ, bỏ học hành; người thì bỏ chồng con, chắt chiu, gom góp được chút tiền lại mang đi ‘phụng sự’ tổ chức này…

Tà đạo kinh hoàng như thôi miên từ Hải Phòng đang vươn vòi Bạch Tuộc khắp nơi
Các tín đồ trong một lần ngồi cầu nguyện ở huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng).
Được sự giúp đỡ của Công an huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng), phóng viên được tiếp cận với một số người đang là nạn nhân của những trò bịp bợm của tà đạo nói trên, phần nào vén lên ‘tấm màn ma mị’ như một lời cảnh tỉnh cho người dân trước nguy cơ lan rộng và lún sâu vào tà đạo này.

Chồng bất lực nhìn vợ ôm con bỏ theo tà đạo

Độc giả có bất kỳ thông tin liên quan đến tà đạo "Hội Thánh Đức Chúa Trời" hãy liên lạc với chúng tôi. Chúng tôi sẽ cùng độc giả quyết bóc trần bộ mặt nguy hiểm của tà đạo nguy hiểm, khiến bao người run sợ, khiến bao gia đình ly tán này.

Như đã hẹn trước, chúng tôi tìm gặp anh Đoàn T.T. (SN 1986, ở xã Ngũ Lão, huyện Thủy Nguyên, TP Hải Phòng). Anh T. ngồi thẫn thờ với ánh mắt đượm buồn chờ chúng tôi đến.

Không giấu nổi sự buồn bã và bức xúc khi kể lại những ngày tháng tìm kiếm, nhưng không lôi kéo được người vợ trẻ thoát khỏi ‘thiên la địa võng’ của những kẻ cầm đầu nhóm tà đạo với cái mác “Hội Thánh Đức Chúa Trời”, khiến gia đình anh tan nát.

Như bao đôi lứa khác yêu nhau, một đám cưới tràn đầy hạnh phúc và hy vọng về tương lai tươi sáng của đôi vợ chồng trẻ cũng đã đến, năm 2014, vợ chồng anh vỡ òa hạnh phúc khi đón đứa con trai chào đời trong sự mong mỏi và chúc phúc của đôi bên nội ngoại và bạn bè gần xa, những tưởng, họ sẽ sống bên nhau êm ấm, vun đắp cho gia đình trẻ trong sự thương yêu của tình chồng, nghĩa vợ.

Tuy nhiên, sau khi sinh con được 3 tháng, vợ anh T. là chị Bùi Th.A. (SN 1992), có những biểu hiện bất thường, như hay ngồi trong góc tối lẩm bẩm, rồi đi về bất định mà không hiểu vợ đang có chuyện gì. Anh T. quyết định theo chân vợ đi tìm câu trả lời.

Tà đạo kinh hoàng như thôi miên từ Hải Phòng đang vươn vòi Bạch Tuộc khắp nơi
Từ một người vợ xinh đẹp, hiền lành trở thành một người u mê, bỏ chồng theo tà đạo.
Bằng cách thức riêng của bản thân, anh T. phát hiện vợ đang theo một nhóm người, trong đó có Chu Quốc Cường (SN 1986, quê ở Hà Nội) về xã Tân Dương (Thủy Nguyên, Hải Phòng) thuê một ngôi nhà, mở cơ sở tuyên truyền, lôi kéo nhiều người, đa số là phụ nữ, thậm chí có cả người già và đàn ông để truyền bá về đạo lạ, với tên gọi: “Hội Thánh Đức Chúa Trời” hoặc “Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ”.

“Theo quan niệm của tà đạo này, con người không phải do cha mẹ sinh ra mà hòn đất nặn ra con người. Con người chết về với cát bụi hết. Cát bụi về với cát bụi. Ai mà chết sớm thì được lên thiên đàng bằng con tàu Seon, chỉ chở được 30 người/chuyến” - Anh T. kể.

Họ còn tuyên truyền ai thờ cúng tổ tiên, ông bà, người đã chết là thờ cúng ma quỷ. Vì vậy phải đập bỏ bát hương, bàn thờ. Do đó, sau khi đã tham gia, vợ anh T. cũng đã đập hết bát hương của gia đình mình.

Anh T. cho biết, khi chúng lôi kéo được những tín đồ, hàng ngày họ sống với nhau theo kiểu bầy đàn. Cùng ăn uống, sinh hoạt, cùng ngủ chung nhà và ăn ở rất bẩn thỉu, có khi cả tuần họ mới tắm gội một lần.

Theo lý luận của tà đạo này, tiền bạc là tội lỗi, tuy nhiên họ lại giở chiêu trò ‘móc túi’ của các tín đồ bằng cách, mỗi tuần, các tín đồ phải bỏ 200 - 500 nghìn đồng vào một cái phong bì, bên ngoài có chữ “Cha mẹ yêu anh em rất nhiều”, rồi đưa cho trưởng nhóm.

Ngoài ra, mỗi tín đồ phải ngồi ‘hầu thánh’ 3 lần/tuần, mỗi lần phải đóng 50 nghìn đồng, cũng được bỏ vào cái phong bì có chữ nêu trên.

Tà đạo kinh hoàng như thôi miên từ Hải Phòng đang vươn vòi Bạch Tuộc khắp nơi
Chiếc phong bì dùng để bỏ tiền cung phụng những kẻ cầm đầu.
Bỏ ngoài tai những lời khuyên nhủ, thương yêu của chồng, mỗi khi có cơ hội, vợ anh T. lại bế theo con nhỏ trốn nhà đến ‘đại bản doanh’ nêu trên để ‘hầu thánh’ và cầu nguyện, nghe trưởng nhóm tuyên truyền, giảng đạo.

Khi bị lộ ‘cơ sở bí mật’, chúng lại chuyển địa điểm, khiến anh T. không còn nhớ nổi đã bao ngày, bao đêm quên ăn, mất ngủ để đi tìm vợ, tìm con, đặc biệt con anh còn quá nhỏ nhưng lại bị chính người mẹ bắt ‘chịu trận’ cùng trong sự u mê của cái tà đạo quái đản này.

Vì quá thương con nên thời gian đầu, anh T. vất vả làm lụng được bao nhiêu tiền đều dành cho việc đi tìm vợ tìm con. “Khổ lắm anh ạ!” - Anh T. nghẹn ngào.

Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian tìm được vợ, được con về, người vợ giả vờ ngoan ngoãn ở nhà, để anh T lao vào công việc kiếm tiền trang trải cuộc sống. Mặc dù vậy, chẳng được bao lâu, vợ anh lại bế con trốn đi biệt tăm theo nhóm người kia mà không hẹn ngày về.

Suốt nhiều năm qua, bằng tình thương yêu, sự nhẫn nại, từ nhẹ nhàng, tình cảm khuyên nhủ đến thái độ cương quyết, với hy vọng người vợ sẽ hồi tâm chuyển ý trở về với anh, với cuộc sống bình thường như trước khi chưa bị tà đạo này lôi cuốn vợ anh, nhưng anh T. đành bất lực. Từ đầu năm 2017, vợ anh T. đã ôm con bỏ đi không quay trở lại.

Năm 2017, sau nhiều năm không thể chịu đựng nổi, anh T. đã làm đơn ly dị vợ và tòa đã xử đơn phương cho anh được ly hôn.

Cuối năm 2017, khi biết vợ, con đang ở một cơ sở tại TP Cẩm Phả (Quảng Ninh), anh lặn lội ra tìm nhưng khi đến nơi, họ đã chuyển sang huyện Vân Đồn và bặt vô âm tín từ đó.

“Ở đây có khoảng gần 20 người theo hội này” - anh T. tiết lộ.

Tà đạo kinh hoàng như thôi miên từ Hải Phòng đang vươn vòi Bạch Tuộc khắp nơi
Những kẻ cầu đầu lập bản đồ, lên kế hoạch mở các tụ điểm để truyền giáo.

Hé lộ nhiều tình tiết

Anh T. cho biết, lâu nay, cứ thấy chị em đến các cửa hàng làm đẹp, spa hoặc ở một số địa điểm quán xá, nếu gặp các tín đồ này là lập tức chúng tìm cách tiếp cận tuyên truyền, dụ dỗ để lôi kéo theo họ, đến gặp mặt trưởng nhóm.

Anh T. cũng cho biết, Phó trưởng nhóm mà anh biết tên là Đ. (xã Thủy Đường, huyện Thủy Nguyên) và L. (xã Minh Tân, Thủy Nguyên), từng có tiền án, vừa chấp hành xong án phạt tù 3 năm về tội trộm cắp tài sản. Cách đây 3 năm, L. lấy một tín đồ khác người cùng huyện, tên M.

Hiện, trụ sở chính của nhóm tà đạo này ở khu trung tâm quận Kiến An (Hải Phòng), tại một ngôi biệt thự của một cặp vợ chồng già giàu có. Chỉ các đệ tử VIP mới được vào đây. Từ đây, một số nhóm nhỏ cũng được hình thành tại khu vực trung tâm quận Kiến An.

Tà đạo kinh hoàng như thôi miên từ Hải Phòng đang vươn vòi Bạch Tuộc khắp nơi
Các tài liệu, đồ dùng trong một lần lực lượng chức năng thu giữ tại một cơ sở truyền đạo trái phép ở Thủy Nguyên (Hải Phòng) cuối năm 2017.
Theo anh T, trụ sở chính của nhóm tà đạo này ở Hà Nội. Bằng các "biện pháp nghiệp vụ”, anh T. không mấy khó khăn để theo chân vợ và tìm được vợ. Tuy nhiên, anh T. bất lực không thể lôi vợ ra khỏi ‘vũng bùn lầy’.

Về tài liệu tuyên truyền, anh T. cho biết, họ lấy một số đoạn kinh của một tôn giáo rồi cải hoán, chỉnh sửa, lồng ghép các hình ảnh khác vào để tuyên truyền về những vụ thiên tai, bão lũ, chiến tranh, thảm họa, cảnh báo về ngày tận thế…

"Theo những tín đồ này, quan hệ vợ chồng là uế tạp nên vợ chồng không được gần gũi nhau. Hàng ngày họ cũng chẳng thiết ăn, thân thể xanh xao, đen, gầy như con cá mắm. Có bao nhiêu tiền nộp hết cho những kẻ cầm đầu, mỗi bữa chỉ ăn 1 bát cơm không, rồi mua cam rẻ tiền, để khi nào thối ra mới ăn chứ không ăn cam tươi ngon.

Đáng nói, món sở trường của họ là thịt chó. Năm 2014, em phải vào miền Nam học nghề, ở nhà có 2 con chó, vợ em gọi đồng bọn đến giết thịt 1 con” - anh T. kể.

Anh T. cho biết: "Tính đến cuối năm 2017, nhóm này có khoảng 40 người, hiện đã dạt ra huyện Vân Đồn (Quảng Ninh) để tiếp tục lôi kéo, truyền bá tà đạo này. Hàng tuần, họ tổ chức truyền đạo 2 tiếng/ca, thứ 7 họ tổ chức cả ngày. Buổi tối vào các ngày thứ 3, 5, 7. Chủ nhật nghỉ.

Cứ 4 ngày họ mới tắm giặt 1 lần, kể cả khi họ ở bầy đàn với nhau hay khi ở nhà riêng. Khi cầu nguyện, họ lấy khăn trắng trùm đầu ngồi cầu nguyện.

Tà đạo kinh hoàng như thôi miên từ Hải Phòng đang vươn vòi Bạch Tuộc khắp nơi
Một loại tài liệu nhóm tà đạo sử dụng đi tuyên truyền, lôi kéo tín đồ.
Theo anh T., những tín đồ này họ rất đoàn kết, quyết liệt bảo vệ nhau khi bị người khác xâm phạm. Họ không sợ chết và muốn chết sớm để lên thiên đàng. Khi đi xe máy ra đường, người khác tránh họ thì tránh chứ họ không bao giờ tránh ai.

Anh T. cho biết thêm, cứ mỗi lần đi dài ngày về, mặt vợ anh lại xám xịt, thâm đen nhìn như người mất hồn. Phải sau nhiều ngày mới hồi tỉnh lại như người bình thường.

Đau xót nhất là năm 2015, khi vợ anh có thai đứa con thứ 2 được 4 tháng, một người đàn ông khoảng 65 tuổi trong nhóm tà đạo này (quê xã Hòa Bình, huyện Thủy Nguyên) đã sắc thuốc Bắc cho uống, sau đó vợ anh bị sảy thai, từ đó đến nay không thể mang thai được nữa.

“Dịp Tết Mậu Tuất, em nhớ con em quá nên chạy xe máy lên tận Tây Sơn (Hà Nội) để nhìn mặt con cho đỡ nhớ rồi về nhưng không để cho vợ và con phát hiện ra” - anh T. nghẹn lời.

“Tới đây, em sẽ làm đơn xin Tòa án xử cho em được nuôi con. Em sẽ tìm con về, nuôi dạy con khôn lớn nên người, chứ nhất định không để cho đi theo mẹ nó u mê chạy theo tà đạo kia.

Bây giờ em chỉ mong sao cơ quan chức năng sớm vào cuộc bắt giữ, xử lý những kẻ cầm đầu nhóm tà đạo này để đỡ làm khổ bao người, bao gia đình nhà tan cửa lát, vợ chồng, cha con ly tán” - anh T. nói như cầu khẩn.

Theo Ban Tôn giáo TP Hải Phòng, từ năm 2015 đến nay, trên địa bàn có xuất hiện hiện tượng tôn giáo có tên “Hội thánh của Đức chúa trời” tên gọi khác là Hội thánh của Đức chúa Trời Mẹ. Hiện nay, có gần 10 người đang lén lút hoạt động truyền đạo.

Quá trình hoạt động, họ đã lôi kéo được một số người tham gia, chủ yếu là phụ nữ, người già và học sinh, sinh viên, gây mâu thuẫn gia đình (không sinh hoạt vợ chồng), xung đột văn hóa (gỡ bỏ bàn thờ tổ tiên), có dấu hiệu lôi kéo; trục lợi (trích nguồn thu 10% để đóng góp cho tổ chức), tuyên truyền mê tín dị đoan (thế giới tận thế, sớm về thiên đường để hưởng sung sướng).

Cùng với đó, hội này đã lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để truyền bá trái pháp luật, chia rẽ tôn giáo làm ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân. Tổ chức và những người tham gia truyền đạo chưa hợp pháp theo quy định

Được biết, thời gian qua cơ quan chức năng thành phố đã liên tục “bóc, gỡ” các điểm hoạt động của nhóm người trên. Tuy nhiên, những người này luôn tìm cách chống đối, không chịu phối hợp, liên tục thay đổi địa điểm, lén lút hoạt động trên các địa bàn huyện Thủy Nguyên, huyện Tiên Lãng và quận Kiến An.

Minh Khang

Thượng tướng Tô Lâm: Người tạo bước ngoặt với Đề án đổi mới ngành Công an


Đề án "Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả" ngay từ khi ra đời cho đến khi được Bộ Chính trị thông qua đã thu hút được quan tâm chú ý của đông đảo người dân.

Trong đó, người chấp bút và bảo vệ Đề án này chính là Thượng tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an.

Hẳn sẽ có không ít người đặt ra câu hỏi, vì sao Bộ Công an lại có động thái đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy. Trước hết, vì đó là yêu cầu chung được các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước đặt ra trong bối cảnh hiện nay, đó là: Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) về “Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; Nghị quyết số 19-NQ/TW về “Một số vấn đề tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”. Có thể nói vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đã được đặt ra khá lâu, nhưng dường như đây là thời điểm được các cấp thể hiện sự quyết tâm cao độ để thực hiện.

Thượng tướng Tô Lâm: Người tạo bước ngoặt với Đề án đổi mới ngành Công an
Thượng tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an.
Mấu chốt của vấn đề này là tinh giản bộ máy để hoạt động hiệu quả hơn, đồng thời tăng năng suất, thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức. 

Trả lời báo chí khái quát về cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của Đề án này, Thượng tướng Tô Lâm cho rằng: Tổ chức, bộ máy của Công an nhân dân từ khi thành lập đến nay là quá trình phát triển có tính lịch sử và đều xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự trong từng giai đoạn cách mạng; sau mỗi lần cải cách, kiện toàn được hoàn thiện hơn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của ngành Công an và sự phát triển của đất nước.

Bên cạnh đó, Thượng tướng cũng chỉ ra Đề án dựa trên quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ; các quan điểm của Đảng về xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước và xây dựng lực lượng CAND đã được đề ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII; Nghị quyết số 04-NQ/TW, Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW đồng thời căn cứ vào kết quả tổng kết quá trình hình thành, phát triển, kế thừa có chọn lọc, phát huy những ưu điểm của tổ chức, bộ máy Bộ Công an trong hơn 70 năm qua.

Như vậy có thể thấy Đề án ra đời là một quá trình căn cứ vào hoạt động thực tiễn của ngành Công an được đặt ra trong bối cảnh hiện nay cũng như tình hình chung của các ngành khác. Vì thế Đề án này không bị lạc lõng, không phải chỉ riêng của ngành Công an nên dễ hiểu vì sao Đề án được Bộ Chính trị thông qua.

Trước Bộ Công an, Bộ Công thương đã có lộ trình sắp xếp, thu gọn từ 35 đơn vị xuống còn 30 đơn vị, giải tán một Tổng cục và nâng cấp một Cục lên Tổng cục... Bên cạnh đó, một số bộ, ngành cũng đã có những động thái nhằm tinh giản bộ máy với những lộ trình khác nhau, tùy từng đặc điểm, đặc thù riêng.

Tuy nhiên, cho đến nay, dường như Đề án cải cách ngành Công an được đưa ra trong thời gian qua được cho là mạnh mẽ, quyết liệt nhất. Theo đó, sẽ “xóa sổ” các Tổng cục, các cơ quan cấp Cục cũng sẽ sắp xếp lại, đồng thời sắp xếp, thu gọn các đơn vị sự nghiệp công lập, giáo dục, báo chí, y tế trong Công an nhân dân. Tổ chức lại Cảnh sát Phòng cháy, chữa cháy tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gắn với Công an tỉnh, thành phố để bảo đảm gắn kết, phát huy tối đa nguồn lực trong thực thi nhiệm vụ theo hướng “Bộ tinh, tỉnh mạnh, huyện toàn diện, xã bám cơ sở”.

Điểm đáng lưu ý trong Đề án được đưa ra là về chức năng, nhiệm vụ của Bộ Công an không thay đổi.

Khi mới nghe về Đề án này, hẳn sẽ có không ít ý kiến được đưa ra. Hoặc là đồng tình vì Đề án đã chạm đúng “điểm yếu” của bộ máy cồng kềnh đã tồn tại nhiều năm nay, đây là thời điểm thích hợp để cải tổ. Hoặc có những lo ngại vì việc làm này động chạm đến vấn đề “con người” với các tướng lĩnh, sỹ quan, hạ sỹ quan, chiến sỹ ngành Công an ảnh hưởng quyền lợi, chức vụ…

Với một Đề án mang tính bước ngoặt như vậy nên dễ hiểu sự quan tâm cũng như lo ngại của nhiều người. Bởi câu trả lời cho Đề án này vẫn còn ở phía trước và phải chờ đợi trong tương lai.

Được biết người chấp bút cho đề án này - Thượng tướng Tô Lâm trên cương vị tư lệnh ngành Công an chưa lâu nhưng đã để lại nhiều dấu ấn khi liên tiếp đưa ra những quyết định mang tính đột phá như: Đồng ý huỷ bỏ điều 292, Bộ Luật Hình Sự 2015; Quyết định lộ trình chi tiết cho chính sách bỏ “sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, CMND” cho đến năm 2020; Quyết định bỏ yêu cầu đặt máy chủ của các hãng nước ngoài tại Việt nam… Nhìn lại những quyết định này của Thượng tướng có thể thấy ông không vì lợi ích cá nhân, lợi ích của thiểu số mà vì lợi ích của số đông, của người dân. Lợi ích của người dân luôn được ông đặt lên hàng đầu. Vì thế dễ hiểu vì sao những quyết định được ông đưa ra trước đó khiến người dân vui mừng, củng cố niềm tin và đặt nhiều kỳ vọng ở Thượng tướng.

Cùng với đó, mới đây Thượng tướng Tô Lâm đã ban hành Công điện số 795/BCA-V11 gửi Công an các đơn vị, địa phương về việc siết chặt kỷ luật, kỷ cương, phòng ngừa sai phạm, suy thoái trong Công an nhân dân.

Thượng tướng Tô Lâm: Người tạo bước ngoặt với Đề án đổi mới ngành Công an
Đề án "Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả" thu hút sự quan tâm của người dân.
Có thể nói, song song với quá trình thực hiện Đề án, việc ban hành công điện này là kịp thời, đúng lúc, hợp lòng người. Bởi thời gian gần đây, một số cựu quan chức của ngành Công an đã dính vào sai phạm nghiêm trọng khiến nhiều người không khỏi hoài nghi. Hơn thế, trong quá trình thực hiện Đề án đổi mới ngành Công an chắc chắn khó tránh khỏi những khó khăn. Vậy nên Công điện về siết chặt kỷ luật, kỷ cương, phòng ngừa sai phạm, suy thoái trong ngành thể hiện bản lĩnh, sự quyết tâm, nghiêm minh, mong muốn những thay đổi tích cực của vị tư lệnh ngành nói riêng và toàn ngành nói chung.

Từ những gì đã làm, đã thể hiện của Thượng tướng Tô Lâm trong thời gian qua, với Đề án sắp xếp lại ngành Công an lần này nhiều người đặt niềm tin và hi vọng sẽ tạo nên bước đột phá, mang lại thành công của một đầu óc “dám nghĩ, dám làm”. Nếu không quyết tâm thực hiện, chấp nhận những khó khăn để vượt qua thì mãi mãi là rào cản cho sự thay đổi và phát triển không chỉ của một ngành mà của các ngành khác./.

Đập tan âm mưu phục hồi "Tin lành Đê-ga"


Thời gian qua, một số đối tượng FULRO lưu vong đã móc nối với các đối tượng ở xã Ia Hla (huyện Chư Pưh) âm mưu lôi kéo bà con dân làng nhóm họp “Tin lành Đê-ga”, hoạt động FULRO chống phá chính quyền. Trước tình hình này, Công an huyện Chư Pưh đã chủ động bám địa bàn, bám dân, triển khai các biện pháp nghiệp vụ đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả âm mưu, thủ đoạn của chúng.

Mới đây, từ nguồn tin nhân dân cung cấp và qua công tác nghiệp vụ, Công an huyện Chư Pưh đã phối hợp với các đơn vị chức năng của Công an tỉnh và Cục An ninh Tây Nguyên đấu tranh, bóc gỡ nhóm phục hồi “Tin lành Đê-ga” ở xã Ia Hla, đưa 25 đối tượng liên quan ra kiểm điểm, giáo dục trước dân. Trước dân làng Hra và đại diện các ban, ngành, đoàn thể, các đối tượng này đã thừa nhận hành vi sai trái của mình.

Đập tan âm mưu phục hồi "Tin lành Đê-ga"
Siu Blỡ thừa nhận hành vi sai trái của mình. Ảnh: H.T
Theo đó, từ tháng 11-2017, Rah Lan Đương, Siu Blỡ (cùng trú tại làng Hra, xã Ia Hla) đã liên lạc, nhận chỉ đạo của 2 đối tượng FULRO lưu vong ở Mỹ là Rah Lan Ghênh và Kpui Duyn để tuyên truyền, lôi kéo người dân tộc thiểu số địa phương duy trì hoạt động “Tin lành Đê-ga”, chờ thời cơ thành lập cái gọi là “Nhà nước Đê-ga”. Thông qua mạng xã hội, chúng đã tán phát cho nhiều người xem các hình ảnh và video bịa đặt về việc quốc tế đã công nhận “Tin lành Đê-ga”, “Nhà nước Đê-ga” để lừa mị và củng cố niềm tin cho số đối tượng trong nhóm. Ngoài ra, chúng còn thu thập các thông tin sai sự thật liên quan đến đất đai, tôn giáo, nhân quyền gửi ra bên ngoài để xuyên tạc, vu cáo chính quyền Việt Nam. 

Qua đấu tranh, Công an huyện Chư Pưh xác định, vì thiếu hiểu biết, nhẹ dạ cả tin nên các đối tượng này đã bị bọn phản động FULRO lưu vong lừa phỉnh tham gia hoạt động phục hồi “Tin lành Đê-ga” để phục vụ mưu đồ chính trị của chúng. Được chính quyền và ngành chức năng vận động, giải thích, họ đã nhận ra âm mưu, thủ đoạn của bọn phản động FULRO lưu vong và hành vi sai trái của mình, tự nguyện cam kết từ bỏ “Tin lành Đê-ga” để chăm lo lao động sản xuất. Tại buổi kiểm điểm, Siu Kút (trú tại làng Tai Pêr, xã Ia Hla), một trong số đối tượng tham gia nhóm họp “Tin lành Đê-ga”, thừa nhận: “Chúng tôi đã mắc mưu bọn phản động FULRO, làm những việc vi phạm pháp luật. Hôm nay, chúng tôi xin hứa từ bỏ “Tin lành Đê-ga”. Mong chính quyền và bà con tha thứ, khoan hồng cho chúng tôi để về với gia đình”.

Ông Siu Rech - Phó Chủ tịch HĐND xã Ia Hla, cho biết: Do hạn chế về trình độ nên khi bị bọn phản động FULRO lưu vong xúi giục, nhiều người dân tộc thiểu số đã lầm đường, lạc lối, vi phạm chính sách, pháp luật của Nhà nước. Sau khi bóc gỡ và đưa các đối tượng ra kiểm điểm trước dân, chính quyền địa phương đã đề nghị ngành chức năng yêu cầu những đối tượng vi phạm cam kết không tiếp tục nhóm họp “Tin lành Đê-ga”, không nghe theo sự xúi giục của bọn phản động.

Trong câu chuyện với chúng tôi, Siu Blỡ, một trong số 25 người vừa bị đưa ra kiểm điểm giáo dục về hành vi tham gia phục hồi “Tin lành Đê-ga” tỏ ra rất ân hận vì những ngày tháng lầm lỗi theo FULRO. Trước đây, vì nghe theo lời xúi giục của bọn phản động FULRO lưu vong, Blỡ đã tham gia hoạt động phá hoại chính sách đoàn kết và bị kết án 10 năm tù. Mặc dù đã được học tập, cải tạo nhưng Blỡ vẫn tiếp tục liên lạc, nhận chỉ đạo của FULRO lưu vong để phục hồi cái gọi là “Tin lành Đê-ga”.

Siu Blỡ thừa nhận: “Tôi đã lôi kéo anh em trong làng duy trì hoạt động “Tin lành Đê-ga”. Hành vi đó là vi phạm pháp luật. Được Nhà nước khoan hồng, giờ tôi chỉ lo làm ăn nuôi vợ con, tuyệt đối không nghe lời lôi kéo của bọn phản động FULRO lưu vong, làm ảnh hưởng đến bản thân, gia đình và bà con dân làng”. Được biết, để vực dậy kinh tế gia đình, chăm lo cho 5 đứa con ăn học, Blỡ đang tập trung chăm sóc 200 trụ hồ tiêu, 5 sào cà phê và trồng thêm 1 ha mì và lúa nước.

Đại úy Rah Lan Tuấn Phương - Đội trưởng Đội An ninh, Công an huyện Chư Pưh, cho biết: Từ cuối tháng 11-2017 đến nay, các đối tượng FULRO lưu vong, điển hình là Kpui Duyn và Rah Lan Ghênh thường xuyên chỉ đạo vào trong địa bàn xã Ia Hla để tuyên truyền, lôi kéo bà con tham gia cái gọi là “Tin lành Đê-ga”. Qua công tác nắm tình hình, Công an huyện đã gọi các đối tượng liên quan trên địa bàn xã lên làm việc để làm rõ các hành vi sai trái, đặc biệt là việc nhận sự chỉ đạo của FULRO lưu vong để tuyên truyền vào trong địa bàn, phát triển lực lượng theo cái gọi là “Tin lành Đê-ga”, củng cố thành lập cái gọi là “Nhà nước Đê-ga”. Xét thấy hành vi của các đối tượng trong thời gian qua mới là bước đầu nên Công an huyện đã buộc các đối tượng cam kết từ bỏ cái gọi là “Tin lành Đê-ga” để tập trung lao động, phát triển kinh tế gia đình.

Quốc Thành - Hữu Trường

Thứ Hai, 16 tháng 4, 2018

NGÀY 30/4/1975 TRONG TRÁI TIM CÁC VỊ TƯỚNG THỜI ẤY


Sáng 30/4/1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng các ủy viên Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đón nhận tin vui quân giải phóng tiến vào dinh Độc Lập tại phòng họp ở Nhà Con Rồng, thành cổ Hà Nội.

Theo hồi ức của đại tướng Võ Nguyên Giáp thể hiện trong cuốn “Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng”, Bộ chỉ huy tối cao nhận tin đầu tiên về việc quân giải phóng có xe tăng dẫn đầu đang tiến vào Sài Gòn từ Đài phát thanh Nhật Bản lúc 10h. Đến 10h50, Cục 2 (Quân báo) báo cáo quân giải phóng đã vào dinh Tổng thống chính quyền Sài Gòn. Ngay sau đó, các đài phát thanh phương Tây cũng đưa tin này.

11h30, ông Nguyễn Duy Phê, Cục phó Cục cơ yếu mang vào phòng họp một bức điện của Trung tướng Lê Trọng Tấn (Tư lệnh cánh quân phía đông) báo cáo: Một đơn vị thuộc cánh quân phía đông đã cắm cờ lên dinh Độc Lập.

Sau khi chỉ đạo gửi bức điện “Đã nhận tin ta cắm cờ lên dinh Độc Lập lúc 11h. Các anh trong Bộ Chính trị rất vui, rất vui" lúc 12h25, đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ thị cho Cục Tuyên huấn thuộc Tổng cục Chính trị điện ngay cho Thông tấn xã Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam kịp thời truyền tin thắng lợi, và chuẩn bị viết thông cáo chiến thắng. Chỉ 15 phút sau, đài ngừng buổi phát thanh thường lệ, phát đi phát lại dòng tin: Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Lẫn vào tiếng loa phóng thanh, tiếng reo hò, hoan hô chiến thắng vang dậy khắp phố phường.

12h50, tại Sở chỉ huy, có mặt thiếu tướng Cao Văn Khánh, Phó tổng Tham mưu trưởng; đại tá Lê Hữu Đức, Cục trưởng Tác chiến; đại tá Nguyễn Trọng Yên và thượng tá Phạm Chí Nhân, Cục trưởng và Cục phó Tuyên huấn. Trước tấm bản đồ thành phố Sài Gòn - Gia Định, mọi người đứng dậy, chăm chú nhìn theo hướng tay đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ.

Thượng úy Nguyễn Tiến Trỗ, cán bộ bảo vệ đại tướng, với chiếc máy ảnh hiệu Kiev, đã ghi lại hình ảnh lịch sử này.

NGÀY 30/4/1975 TRONG TRÁI TIM CÁC VỊ TƯỚNG THỜI ẤY

Trong khi đó, tại miền Nam, ngày 30/4/1975, Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh đang đóng tại chỉ huy sở tiền phương - căn cứ Căm Xe thuộc xã Minh Thạch, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương (nay xã Minh Tân, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương).

Khi nghe báo cáo quân giải phóng đã chiếm dinh Độc Lập, Tổng thống Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng, cả Sở chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh reo mừng. Trong sách “Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng”, đại tướng Võ Nguyên Giáp kể về diễn biến được thuật lại tại Sở chỉ huy chiến dịch lúc đó: “Không còn là chuyện bất ngờ mà ai nấy đều giàn giụa nước mắt, siết chặt tay nhau, phấn khởi, tự hào”.

Các ông Lê Đức Thọ, đại diện Ban chấp hành trung ương Đảng tại mặt trận; đại tướng Văn Tiến Dũng, Tư lệnh chiến dịch; Phạm Hùng, Chính ủy chiến dịch, xúc động ôm hôn mọi người. Thiếu tướng Đinh Đức Thiện (Phó tư lệnh chiến dịch) là người khóc ra tiếng to nhất. Thiếu tướng Trần Văn Trà (Phó tư lệnh chiến dịch) đôi mắt đỏ hoe, nghẹn ngào sung sướng. Riêng ông Phạm Hùng, mở phanh chiếc áo bà ba, vừa cười to vừa bình luận sảng khoái, vừa ra lệnh chuẩn bị tiếp quản Sài Gòn.

NGÀY 30/4/1975 TRONG TRÁI TIM CÁC VỊ TƯỚNG THỜI ẤY

Trong bức ảnh lịch sử “Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh tại chỉ huy sở tiền phương”, do tác giả Võ Xuân Sáng, cán bộ bảo vệ đại tướng Văn Tiến Dũng chụp, ngoài các vị kể trên, còn có mặt thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, Tham mưu trưởng chiến dịch; Lê Xuân Kiện, Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng binh chủng Tăng - Thiết giáp…

Chiều 30/4/1975, tại dinh Độc Lập, sau khi đưa Tổng thống chính quyền Sài Gòn Dương Văn Minh và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh đọc lời tuyên bố đầu hàng vô điều kiện trở về, đại úy Phạm Xuân Thệ, Trung đoàn phó Trung đoàn 66, sư đoàn 304, đã bị một cán bộ trong Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 có mặt lúc đó đã phê bình là làm việc đó mà không báo cáo cấp trên.

Trung tướng Phạm Xuân Thệ, sau là Tư lệnh quân đoàn 2, rồi Tư lệnh quân khu 1, kể trong hồi ức: “Tôi không biết nói sao, bởi thực lòng trong tình thế đó tôi chỉ nghĩ đơn giản là làm sao sớm để họ tuyên bố đầu hàng, chiến sự sẽ sớm chấm dứt, bớt đi những sự hy sinh không đáng có. Liền sau đó, đồng chí Sư đoàn trưởng Nguyễn Ân nói: Đây là Thệ, Trung đoàn phó Trung đoàn 66 Sư đoàn 304, sai đâu sẽ kiểm điểm sau, để cho đồng chí ấy về chỉ huy đơn vị".

Sau lúc ấy, ông Thệ lên xe về đơn vị, đi kiểm tra Tiểu đoàn 9 lúc này đã chiếm giữ Bộ tư lệnh Hải quân và cảng Ba Son, nhưng một số người dân xô vào cảng Ba Son cướp tài sản. Ông ra lệnh cho Tiểu đoàn 9 phải bảo vệ không để cho dân vào cướp phá, đóng kín các cánh cổng và tổ chức canh gác chu đáo. "Sau đó tôi về Ban chỉ huy Tiểu đoàn 9. Lúc đó khoảng 17h chiều, tôi đi tắm giặt và lấy trong balô bộ quần áo mới toanh ra mặc, còn bộ quần áo cũ do đã mặc nhiều ngày nên tôi bỏ luôn. Sau này, tôi cứ tiếc mãi vì không giữ lại bộ quần áo còn vương bụi đường mà tôi đã mặc trong giờ phút lịch sử đáng nhớ của dân tộc", ông kể.

"Khoảng 17h30 ngày 30/4, tôi về Sở chỉ huy Trung đoàn đang ở tòa nhà Bộ Nội vụ chính quyền Sài Gòn cũ, ở trước của Dinh Độc Lập, về phía tay trái cách khoảng 500m. Về đến đây tôi gặp đồng chí Nguyễn Ân, Sư đoàn trưởng đang ở Sở chỉ huy Trung đoàn. Vừa thấy tôi, đồng chí Ân nói: Việc đưa Dương Văn Minh ra Đài Phát thanh, các cậu xử trí như thế là đúng đấy, không có gì sai sót đâu. Lúc bấy giờ tôi mới thở phào nhẹ nhõm…", ông kể tiếp.

Thiếu tướng Hoàng Đan, Phó Tư lệnh quân đoàn 2, trong hồi ký “Từ sông Bến Hải đến dinh Độc Lập”, kể về thời khắc lịch sử khi ông vào đến cơ quan đầu não của chính quyền Sài Gòn trưa 30/4: "Khi tôi vào, Tổng thống Dương Văn Minh đã đi ra đài phát thanh. Chuẩn tưởng Nguyễn Hữu hạnh (quyền Tổng tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn) trông thấy tôi đoán là người chỉ huy, nên báo cáo về tình hình trong dinh trước lúc quân giải phóng đến, giới thiệu nhân vật chính có mặt. Tôi nói với chuẩn tướng Hạnh, ở đây còn liên lạc được với đơn vị nào, anh cho họ biết các anh đã đầu hàng không điều kiện và báo cho đơn vị đó nhanh chóng đầu hàng. Chuẩn tướng Hạnh đã liên lạc và truyền lệnh được cho nhiều đơn vị khác nhau".

"Vũ Văn Mẫu - Thủ tướng - xin phép được gặp đại diện Mặt trận với ý định bàn giao về nhà sớm. Tôi nói với ông Mẫu chúng tôi là quân nhân, vì vậy các anh cứ ở đây, ngay trong gian phòng này. Ngày mai sẽ có đại diện Mặt trận đến. Các anh cứ ngồi chơi thoải mái, hôm nay ăn thử một bữa cơm Việt cộng cho vui. Trông bọn họ cũng có vẻ yên tâm, nói cười vui vẻ với nhau", thiếu tướng Đan kể.

"Sau lúc thảo xong thông cáo số 1, khoảng 17h các đồng chí đại diện Quân đoàn 4 vào (Quân đoàn 4 được Bộ chỉ huy chiến dịch giảo nhiệm vụ chiếm dinh Độc Lập). Các đồng chí nói, các đồng chí có nhiệm vụ chiếm dinh Độc Lập nhưng vào chậm, nay xin cho bàn giao lại. Chúng tôi vui vẻ bàn giao ngay. Thật ra chúng tôi cũng muốn bàn giao nhanh để ra ngoài, nắm lại tình hình các đơn vị và trước mắt nghỉ ngơi một ít. Đã 4-5 ngày đêm không hề chợp mắt. Trên đường xe cộ, người chen chúc nhau. Chúng tôi phải hết sức vất vả và mãi 24h mới về đến Thủ Đức", ông Đan kể trong hồi ức.

Thượng tướng Hoàng Cầm, Tư lệnh quân đoàn 4, kể lại với tác giả Phan Hoàng trong cuốn “Phỏng vấn tướng lĩnh Việt Nam”: “13h30 ngày 30/4/1975, khi tôi vào đến dinh Độc Lập, được biết Dương Văn Minh cùng nội các của ông ta từ sáng sớm đến lúc ấy vẫn chưa ăn uống gì. Tất nhiên, họ sợ hãi không dám ngỏ lời. Tôi liền bảo họ: Các ông có thể nhờ người nhà đưa cơm nước và đồ cá nhân cần dùng tới, chứ đói sao chịu nổi… và đêm ấy, tôi cùng anh em binh lính nằm ngay trên hiên dinh Độc Lập nghỉ ngơi. Dù đang đói ngủ nhưng tôi không tài nào chợp mắt được. Đã nằm trong dinh Độc Lập rồi mà tôi cứ ngỡ mình đang mơ!".

Tướng Cầm kể tiếp: "Tôi nhớ hoài kỷ niệm đêm hôm đó. Tôi - Tư lệnh và anh Hoàng Thế Thiện - Chính ủy Quân đoàn 4 cùng nằm trò chuyện và ngủ ngay ngoài hiên dinh Độc Lập. Không mùng mền chiếu gối. Sáng dậy, muỗi đốt đỏ cả người. Chúng tôi đùa, muỗi Sài Gòn kinh quá! Sau này, mỗi lần gặp nhau, anh Thiện cũng hay nhắc lại kỷ niệm ấy. Cả hai cười vang”.

Chủ Nhật, 15 tháng 4, 2018

BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC - GỐC RỄ LÀ BẢO VỆ BẢN SẮC VĂN HÓA



Tròn 590 năm (1428) về trước, trong áng thiên cổ hùng văn “Bình ngô đại cáo” của Đại thi hào dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi đã khẳng định: Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Cách nay 230 năm (1788 - 2018), Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ đọc lời hịch đánh giặc giữ nước, trong đó có nội dung tuyên thệ bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc: Đánh cho để dài tóc/ Đánh cho để đen răng/… Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.

Ra đời cách đây 75 năm, bản “Đề cương văn hóa 1943” của Đảng ta lần đầu tiên nêu rõ văn hóa Việt Nam được xây dựng trên cơ sở ba nguyên tắc: Dân tộc, đại chúng, khoa học. Tròn 20 năm trước (1998), Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII của Đảng đã nhấn mạnh quan điểm: “Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.

Tuy diễn đạt khác nhau, song từ những lời tiền nhân chỉ dẫn đến quan điểm của Đảng đều khẳng định một vấn đề hệ trọng liên quan đến sự tồn vong của dân tộc: Muốn bảo vệ độc lập dân tộc, cần phải coi nhiệm vụ bảo vệ bản sắc văn hóa là gốc rễ.

BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC - GỐC RỄ LÀ BẢO VỆ BẢN SẮC VĂN HÓA
Ảnh minh họa

Bài 1: Dân tộc trường tồn nhờ “dây neo” văn hóa

Trải qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, trong đó lịch sử giữ nước chiếm phần lớn thời gian của tiến trình dân tộc đã cho chúng ta một chân lý: Nước có thể mất, nhà có thể tan, nhưng nhất định không thể để mất tổ tiên, gia phả, dòng họ, không thể mất phong tục, tập quán của ông cha để lại. Lịch sử Việt đã đúc kết rằng, sức sống bền bỉ, trường tồn, mãnh liệt của dân tộc Việt chủ yếu bắt nguồn từ “sức mạnh mềm”, tức là từ văn hóa của con người Việt Nam.

Từ ý chí giữ gìn tâm thức văn hóa dân tộc trong hoàn cảnh ngặt nghèo nhất

Ít có dân tộc nào trên thế giới có đặc điểm lịch sử như dân tộc Việt Nam. Theo sử liệu ghi chép lại, nếu tính từ cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tần vào khoảng cuối thế kỷ thứ III trước công nguyên đến nay, trong 22 thế kỷ qua, dân tộc Việt đã phải trực tiếp kháng chiến trong 13 thế kỷ, trong đó có gần 100 cuộc khởi nghĩa quy mô lớn và hơn 10 cuộc kháng chiến để bảo vệ núi sông bờ cõi. Như vậy, trong tiến trình lịch sử, dân tộc ta đã dành tới gần 60% thời gian để thực hiện nhiệm vụ đấu tranh giữ nước, bảo vệ chủ quyền độc lập dân tộc.

Từ trong tiềm thức sâu xa, người Việt luôn có tâm thế, ý thức bảo vệ những giá trị truyền thống lịch sử và bản sắc văn hóa của cộng đồng dân tộc mình, nhất là mang mặc, sinh hoạt, nếp sống, nghi lễ gắn liền với nghề nông và cộng đồng làng xã. Lịch sử ghi lại rằng, dưới thời Bắc thuộc cả nghìn năm, nhưng người Việt đã nỗ lực tìm mọi cách để lưu giữ, trao truyền cho nhau phong tục, tập quán, lối sống của tổ tiên, từ tục nhuộm răng, ăn trầu, đóng khố, mặc váy, đến “việc hôn nhân lấy gói đất làm đầu” và chôn người chết trong các thân cây khoét rỗng hình thuyền độc mộc.

Theo GS sử học Lê Văn Lan, tổ tiên, ông cha ta giành được thắng lợi chống đồng hóa không phải bằng đấu tranh vũ trang, mà chủ yếu bằng tài trí. Đó là giữ được sự khác biệt về văn hóa, về chủng tộc, về ngôn ngữ, đặc biệt là giữ được ý thức tự chủ “có thể mất nước nhưng không thể mất làng”. Hàm ý triết lý này là dù chủ quyền lãnh thổ quốc gia bị kẻ thù xâm lược, thôn tính, nhưng “hồn cốt” của quốc gia dân tộc nhất quyết không thể bị đánh đổi, hòa tan. Vì làng xã không chỉ là nơi cố kết cộng đồng dân cư, mà chính là nơi hội tụ, bảo tồn, lưu giữ những tâm thức văn hóa của tổ tiên, ông cha đã để lại. Bởi thế, từng có thời kỳ nghìn năm bị kẻ thống trị thực hiện chính sách “cưỡng bức văn hóa” nhằm bài trừ tận gốc phong tục, tập quán, nhưng ông cha ta đã kiên cường bám làng, thề nguyền sống chết với làng, tìm mọi cách để cất giấu, lưu giữ những gia phả, nghi thức, nghi lễ, luật lệ của làng, cương quyết không để cho kẻ thống trị cướp phá, tẩu tán, tiêu tan những di sản quý báu đó của quê hương.

Như vậy, từ trong những hoàn cảnh lịch sử tối tăm nhất tưởng như không có đường ra, tổ tiên, ông cha ta vẫn tìm ra lối thoát cho chính mình. Đó là muốn giữ được quê cha đất tổ lâu dài, muốn cho tổ tiên không bị mất gốc thì không bao giờ được phép lãng quên và làm “đứt gãy” mạch nguồn văn hóa được người Việt vun trồng, bồi đắp, trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bài học về sự kiên trì, ý chí kiên quyết bảo vệ các giá trị văn hóa đã làm nên căn tính, cốt cách dân tộc cách nay cả ngàn năm chưa bao giờ mất đi ý nghĩa của nó, mà vẫn còn sức sống mãnh liệt đến hôm nay và mai sau.

Đến những lời tuyên bố đanh thép của tiền nhân về nền văn hiến Việt và bảo vệ văn hóa Việt

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, các bậc danh nhân văn hóa, anh hùng xuất chúng của dân tộc ta luôn có ý thức, tầm nhìn sâu sắc về bảo vệ cội nguồn văn hóa của ông cha.

Trong bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” được coi là của Lý Thường Kiệt, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, vấn đề độc lập chủ quyền lãnh thổ của dân tộc được khẳng định: Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư (Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Rành rành định phận ở sách trời). Được coi như bản tuyên ngôn độc lập chủ quyền đầu tiên của nước Đại Việt trong thế kỷ XI, dù chưa đề cập tới yếu tố văn hóa, nhưng từ trong 4 chữ “Nam quốc sơn hà” (sông núi nước Nam) đã toát lên niềm kiêu hãnh thiêng liêng, niềm tự hào sâu sắc đối với mỗi con dân Đại Việt. Đó có thể gọi là một thông điệp đầy chất văn hóa vì nó đã khơi gợi trong tâm khảm sâu xa nhất của người dân Đại Việt về bổn phận gìn giữ giang sơn bờ cõi nước nhà.

Sang thế kỷ XV, sau khi đánh tan giặc Minh xâm lược, thay mặt vương triều nhà Lê và muôn dân Đại Việt, năm 1428, Nguyễn Trãi đã viết bản “Bình Ngô đại cáo” bất hủ, trong đó lời mở đầu có những câu tuyên bố hùng hồn về chủ quyền văn hóa của nước ta: Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu/ Núi sông bờ cõi đã chia/ Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Như vậy, nước Đại Việt không chỉ có chủ quyền độc lập về lãnh thổ, mà còn có một nền văn hiến rất lâu đời. Nền văn hiến ấy không phải ngẫu nhiên mà có, mà đó là công sức, trí tuệ, mồ hôi và cả biết bao xương máu của các thế hệ người Việt đã tưới và thấm vào cho “cây độc lập” nước nhà được nảy nở, sinh trưởng trên gốc rễ văn hóa dân tộc.

Kế thừa lời tiền nhân, ý thức về bảo vệ nền văn hóa dân tộc tiếp tục có bước phát triển mới khi lần đầu tiên, quan niệm về giữ gìn phong tục, tập quán của ông cha để lại đã được người anh hùng áo vải cờ đào Quang Trung - Nguyễn Huệ nêu ra trong thế kỷ XVIII. Cách nay 230 năm, ngày 22/12/1788, trước khi chỉ huy nghĩa quân Tây Sơn hành quân ra Bắc đánh đuổi quân xâm lược, Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ khẳng khái tuyên thệ: Đánh cho để dài tóc/ Đánh cho để đen răng/ Đánh cho nó chích luân bất phản/ Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn/ Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.

Theo Thiếu tướng, PGS, TS Vũ Quang Đạo, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, lời hịch trên của Quang Trung -Nguyễn Huệ thể hiện 3 nội dung rõ ràng: Đánh cho để dài tóc/ Đánh cho để răng đen nhằm mục tiêu bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc; Đánh cho nó chích luân bất phản/ Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn nhằm mục tiêu thắng lợi về mặt quân sự; Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ nhằm mục tiêu chính trị là giành lấy lại vị thế nước Nam đã có chủ.

Không ngẫu nhiên mà Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ đặt mục tiêu bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc lên trước mục tiêu thắng lợi quân sự và mục tiêu giành lại vị thế chính trị của đất nước. Vì “răng đen, tóc dài” không đơn thuần chỉ là những bộ phận trên cơ thể của người Việt xưa, mà hơn thế, đó là hình ảnh thân thương của đồng bào ta, là phong tục, tập quán, là diện mạo văn hóa truyền thống bao đời của dân tộc Việt. Nhìn từ góc độ văn hóa quân sự, lời hịch: Đánh cho để dài tóc/ Đánh để cho đen răng thực chất là lời quyết chiến, quyết đánh đuổi quân xâm lược đến cùng để bảo toàn những giá trị gốc gác của người Việt, của linh hồn văn hóa truyền thống Việt. Lời hịch ấy của Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ góp phần thức tỉnh tâm can, lay động lòng người, vì thế đã quy tụ, lôi cuốn được muôn dân đồng tâm hiệp lực thành một sức mạnh phi thường để đánh tan 29 vạn quân xâm lược Thanh trong mùa Xuân Kỷ Dậu 1789, làm nên một trận đại thắng Ngọc Hồi - Đống Đa lẫy lừng trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Có thể khẳng định rằng, từ buổi bình minh của lịch sử, qua thời kỳ một nghìn năm Bắc thuộc và đến thời kỳ phong kiến vừa độc lập, vừa đấu tranh giành lại chủ quyền lãnh thổ của đất nước, dân tộc ta, người Việt ta ngày càng ý thức, nhận thức rõ ràng, sâu sắc hơn về giá trị bất biến của văn hóa dân tộc, từ đó không ngừng tìm ra những cách thức, biện pháp sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với từng thời kỳ, giai đoạn lịch sử để cương quyết giữ gìn, bảo vệ bằng được những giá trị phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa do chính mình tạo dựng, bồi đắp nên. Đây là cơ sở, là tiền đề quan trọng hàng đầu để nước Việt có thể vượt qua mọi phong ba bão táp của thời cuộc, vượt qua mọi sự thử thách khốc liệt của chiến tranh để tiếp tục sinh tồn, tiếp tục khẳng định dân tộc Việt Nam có đủ tư cách là một quốc gia có chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và có nền văn hóa lâu đời đã sinh sôi, nảy nở tốt tươi trên chính mảnh đất thiêng liêng ấy.

Bài 2: Sức mạnh độc lập dân tộc bắt nguồn từ sức mạnh văn hóa

THIỆN VĂN (QĐND)
(còn nữa)